Fr. Duc’s Final Letter April 27, 2025

April 27, 2025

Dear Parishioners,

Very often, we are so wrapped up in our own thoughts and feelings that even when the reality out there stares at us unblinking, telling us a completely opposite story, we simply ignore it. Sorrowful eyes see everything as sad; arrogant heart looks down on everyone. To be truly alive, we must verify our interior world against external reality before someone or something bursts our bubble.

Nevertheless, even the so-called external reality is not the ultimate truth; it is only a world of facts and data, and facts and data must be interpreted to decipher the truth. Here comes the wonderful reminder of Isaiah, “For My thoughts are not your thoughts, nor are your ways My ways. For as the heavens are higher than the earth, so are My ways higher than your ways and My thoughts than your thoughts” (Is 55:8). Only the thoughts and the ways of God, the Creator of the universe, determine what is truth.

Only with that perspective can we grasp the richness and power of the Gospel reading today. Jesus’s disciples were hiding behind locked doors out of fear. Fear of what? Fear of sharing the horrible fate of their master, fear of the rumors that Jesus was alive. How could they face the one whom they abandoned and betrayed? Everything out there seemed to be against them, especially Jesus, the Messiah.

Suddenly, Jesus showed up unannounced. For a moment, their fears increased a thousand times, until Jesus’s words reached their ears, “Peace be with you.” Then he showed them his wounds. Now they knew he was alive. Now they knew he meant what he said, “Peace be with you.” Not a hint of sadness, not a sliver of scolding. Furthermore, he breathed on them the Holy Spirit. Jesus’s thoughts were not their thoughts; nor were his ways their ways.

Then the whole process was repeated with Thomas, who was not there at the first appearance. In addition to fear and shame, Thomas also doubted what other disciples had told him about Jesus’s resurrection. Again, the same peace was rendered to Thomas. Jesus even indulged in Thomas’s demand of putting fingers into his wounds. Like his fellow disciples, Thomas now believed without carrying out his demand, “My Lord and my God!”

As soon as Jesus’s disciples embraced his thoughts and his ways, their fears had turned into joy, cowardice into courage, shame into strength. They went out to all the ends of the earth, so that you and I could receive the faith in Jesus Christ. When humans cooperate in God’s ways, miracles happen, over and over again.

On this Sunday, it is good to contemplate the image of the Divine Mercy. From the very heart that was pierced both by betrayal and cruelty shines forth God’s mercy and forgiveness. Theologically, the moment that Jesus’s heart was pierced by the spear and water and blood poured out was also the conception of the Church. And the Pentecost is the birth of the Church. Human depravity has been transformed into the incipient Body of Christ, the Church. Nothing can stop God from doing what God desires.

What are thinking and feeling? Are they fears, doubts, worries, shames, angers, frustrations, loneliness? Economic chaos, inflation, wars, sickness, and natural disasters are causing a lot of concerns. Whatever they are, it is ok. We do not have control over our feelings and thoughts, most of the time.

The important thing is: what are God’s thoughts and God’s ways with us and for us? God’s ways are eternal, forever unchanging. God wants to give us peace, courage, joy, endurance, hope. In fact, God gives us his own Spirit, who alone provides us with whatever we need in our own circumstances.

Like Jesus’s disciples after the momentous event of the resurrection, for us to experience the joy, peace, hope, and courage that God gives us, we must set aside our own thoughts and feelings, and we must pay attention to the voice of the Holy Spirit.

What is God calling you and me to do now? What is God’s plan for you and me in the current crisis? For sure, God wants us to continue to do what is good, true, and generous. We will have joy when we lift others from their sorrow. We will have peace when we forgive others. We will receive abundantly when we give to others, especially those in dire need like our parish. We will be full of hope when we bring hope to others. Only by making God’s ways our ways that we are fully alive, both now and forever.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

P.S.: This is my last weekly letter as I wrap up my term as pastor of MHT. I have written every week for the last six years, since May 1, 2019. I hope the weekly letters have helped you pray with the Sunday Gospel and put them into practice in your life.

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Rất thường xuyên, chúng ta quá đắm chìm trong những suy nghĩ và cảm xúc của riêng mình đến nỗi ngay cả khi thực tế ngoài kia nhìn chằm chằm vào chúng ta không chớp mắt, kể cho chúng ta một câu chuyện hoàn toàn trái ngược, chúng ta vẫn chỉ đơn giản là lờ nó đi. Đôi mắt buồn bã thấy mọi thứ đều buồn tẻ; trái tim kiêu ngạo coi thường mọi người. Để thực sự sống, chúng ta phải đối chiếu thế giới nội tâm của mình với thực tế bên ngoài trước khi ai đó hoặc điều gì đó chọc vỡ bong bóng trong đầu chúng ta.

Tuy nhiên, ngay cả cái gọi là thực tế bên ngoài cũng không phải là sự thật tối thượng; nó chỉ là một thế giới của sự kiện và dữ liệu, và sự kiện và dữ liệu phải được diễn giải để tìm ra sự thật. Đây là lời nhắc nhở tuyệt vời của Isaia, “Vì tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, cũng như đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Vì trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Is 55:8). Chỉ có tư tưởng và đường lối của Chúa, Đấng Tạo Hóa của vũ trụ, mới quyết định được chân lý là gì.

Chỉ với góc nhìn đó, chúng ta mới có thể nắm bắt được sự phong phú và sức mạnh của bài đọc Tin Mừng hôm nay. Các môn đồ của Chúa Giêsu đã trốn sau những cánh cửa đóng kín vì sợ hãi. Sợ điều gì? Sợ phải chia sẻ số phận khủng khiếp của Thầy, sợ tin đồn rằng Chúa Giêsu vẫn còn sống. Làm sao họ có thể đối mặt với người mà họ đã bỏ rơi và phản bội? Mọi thứ ngoài kia dường như đều chống lại họ, đặc biệt là Chúa Giêsu, Đấng Mêsia.

Đột nhiên, Chúa Giêsu xuất hiện mà không báo trước. Trong một khoảnh khắc, nỗi sợ hãi của họ tăng lên gấp ngàn lần, cho đến khi những lời của Chúa Giêsu đến tai họ, “Bình an cho các con”. Sau đó, Người cho họ xem vết thương của Người. Bây giờ họ biết Người còn sống. Bây giờ họ biết Người có ý như vậy khi nói, “Bình an cho các con”. Không một chút buồn bã, không một chút trách mắng. Hơn nữa, Người thổi hơi Thánh Thần vào họ. Suy nghĩ của Chúa Giêsu không phải là suy nghĩ của họ; đường lối của Người cũng không phải là đường lối của họ.

Sau đó, toàn bộ quá trình được lặp lại với Tôma, người không có mặt ở đó khi Chúa Giêsu lần đầu tiên xuất hiện. Ngoài nỗi sợ hãi và xấu hổ, Tôma còn nghi ngờ những gì các môn đồ khác đã nói với ông về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Một lần nữa, sự bình an tương tự đã được ban cho Tôma. Chúa Giêsu thậm chí còn chiều theo yêu cầu của Tôma là mời ông đặt ngón tay vào vết thương của Người. Giống như các môn đồ khác, Tôma giờ đây đã tin mà không thực hiện lời yêu cầu của mình, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”

Ngay khi các môn đồ của Chúa Giêsu chấp nhận những suy nghĩ và cách thức của Người, nỗi sợ hãi của họ đã biến thành niềm vui, sự hèn nhát thành lòng can đảm, sự xấu hổ thành sức mạnh. Họ đã đi đến tận cùng trái đất, để chúng ta có thể đón nhận đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Khi con người hợp tác với đường lối của Chúa, phép lạ sẽ xảy ra, hết lần này đến lần khác.

Vào Chúa Nhật này, thật là điều tốt đẹp khi chiêm ngưỡng hình ảnh Lòng Thương Xót Chúa. Từ chính trái tim bị đâm thâu bởi sự phản bội và tàn ác, lòng thương xót và sự tha thứ của Chúa tỏa sáng. Về mặt thần học, khoảnh khắc trái tim Chúa Giêsu bị đâm thủng bởi ngọn giáo và nước và máu đổ ra cũng là khoảnh khắc hình thành nên Giáo hội. Và Lễ Ngũ Tuần là ngày khai sinh của Giáo hội. Sự đồi trụy của con người đã được chuyển hóa thành Thân thể mới chớm nở của Chúa Kitô, tức là Giáo hội. Không gì có thể ngăn cản Chúa thực hiện những gì Chúa muốn.

Chúng ta suy nghĩ và cảm xúc gì? Đó có phải là nỗi sợ hãi, sự nghi ngờ, lo lắng, xấu hổ, tức giận, thất vọng, cô đơn không? Hỗn loạn kinh tế, lạm phát, chiến tranh, bệnh tật và thiên tai đang gây ra nhiều lo ngại. Dù là gì thì cũng không sao. Chúng ta hầu như không kiểm soát được cảm xúc và suy nghĩ nhất thời của mình.

Điều quan trọng là: tư tưởng của Chúa và kế hoạch của Chúa cho chúng ta và vì chúng ta là gì? Phương thức hoạt động của Chúa là vĩnh cửu, mãi mãi không thay đổi. Chúa muốn ban cho chúng ta sự bình an, lòng can đảm, niềm vui, sức chịu đựng, hy vọng. Trên thực tế, Chúa ban cho chúng ta Thánh Linh của Ngài, là Đấng duy nhất cung cấp cho chúng ta bất cứ điều gì chúng ta cần trong hoàn cảnh của riêng mình.

Giống như các môn đồ của Chúa Giêsu sau sự kiện trọng đại của sự phục sinh, để chúng ta trải nghiệm được niềm vui, sự bình an, hy vọng và lòng can đảm mà Chúa ban cho chúng ta, chúng ta phải gạt bỏ những suy nghĩ và cảm xúc của riêng mình, và chúng ta phải chú ý đến tiếng nói của Chúa Thánh Linh.

Chúa đang kêu gọi bạn và tôi làm gì bây giờ? Kế hoạch của Chúa dành cho bạn và tôi trong cuộc khủng hoảng hiện tại là gì? Chắc chắn, Chúa muốn chúng ta tiếp tục làm những điều tốt lành, chân thật và quảng đại. Chúng ta sẽ có niềm vui khi nâng đỡ người khác trong nỗi buồn của họ. Chúng ta sẽ có sự bình an khi tha thứ cho người khác. Chúng ta sẽ nhận được dồi dào khi chúng ta cho đi, đặc biệt là những người đang rất cần như giáo xứ của chúng ta. Chúng ta sẽ tràn đầy hy vọng khi chúng ta mang lại hy vọng cho người khác. Chỉ bằng cách biến đường lối của Chúa thành đường lối của chúng ta, chúng ta mới được sống trọn vẹn, cả bây giờ và mãi mãi.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Phụ Chú: Đây là lá thư hàng tuần cuối cùng của tôi trong nhiệm kỳ Chánh Xứ tại CBN. Tôi đã viết hàng tuần trong suốt sáu năm qua, kể từ ngày 1 tháng 5 năm 2019. Tôi hy vọng những lá thư hàng tuần đã giúp mọi người cầu nguyện với Phúc âm Chúa Nhật và thực hành chúng trong cuộc sống của mình.

Fr. Duc’s Message of the Week April 20, 2025

April 20, 2025

Dear Parishioners,

(Continue the meditation in the shoes of Simon, the helper)

The road continues to get steeper. My mind is getting numb. The whole thing has worsened from a nightmare to an imminent end of my life. Each of my steps becomes increasingly more arduous. And the spear heads never let me take a rest. I unfeelingly wobble on, no longer paying attention to my companion. One, two and three more steps, I gasp for air, sensing a call from the death. My knees slowly and shakily bend. The shadow of Death lurs around. The faces of my wife, children, and mother flash in my mind. Oh, God, same me!

As the words just escape my lips, I feel a gentle touch as if someone were patting me. Along with the contact is a warm flow of strength spreading throughout my body. I open my eyes to see who that is. There is no one next to me, except the poor man. His hands are still dangling along his side. There is a breeze, and his garment is fluttering in the wind. I gaze at him as if asking him a question. He looks at me but remains silent and totters on. I wish I could decipher what is going on in his mind. But whoever that was, I still must go on. I hope that with renewed strength, I can survive this ordeal.

Unfortunately, the road keeps going up. The energy I mysteriously received doesn’t last very long. The harsh sunshine and the perilous road never loosen their grips on my devastated body. Again, my eyes begin to spark, and my legs no longer follow my command. Deep in my consciousness, a tinge of hope lingers, the hope that the magic touch would come again, and I would be able to go on. But nothing happens. I give in, vaguely expecting the cross to crush my bones as I drop dead on the ground. “That is it!”, my heart cries out, and I feel like plummeting straight down into an abysmal pit; my whole family plunge along with me.

Yet, there is no thug or bone crushing. The next thing I feel is a hand clutching my arm, and a tremendous flow of power running through my whole body. Hastily, I open my eyes to catch my helper. Yet nothing around me seems to change. The cross is still on my shoulders. The soldiers and the mob are as noisy and oblivious as before. My companion is just as quiet. However, when my eyes meet his, I sense an overwhelming gentleness and solace, as though he were telling me to brace myself up, for I still have a wife, two daughters and two sons waiting for me at home.

The rest takes place like a flash. We finally get to a flat place called the Skull. I am released from the burden. My companion is nailed to the cross. I stood watching the big hammer driving large nails. I hear the sound og the breaking bones. I see him writhing in utmost pain. They then hang him on the cross , which is put up between two other crosses. Looking at him sagging from the cross in utmost torment, I feel as if part of myself were up there.

We are companions for only a very short time, but I know there is forever a special link between us. My troublesome curiosity, my loss of money, my carrying of the cross, and of course my receiving of strength, are all part of this puzzling encounter. I am not sure if I was helping him or he was helping me.

As I walk down the hill, my mind is still whirling with many thoughts, “Is my rendezvous with the man fortuitous? Is he the Son of God as people told me?” I caress my shoulders. The money is no longer there and in its place is the big wound. But I don’t feel like I miss the money at all. That loss is like a tiny ripple in the ocean of peace that is engulfing my heart. I touch the wound. The tingling pain still hurts, but I feel more of the sweetness of the magical touches I had during the trial. In time the loss will be made up. In time the wound will heal. Meanwhile the grace and the peace of the encounter will have been with me for eternity.

No, the whole incident is not a haphazard misfortune but a real blessing. The loss is a letting go. The wound is an enlightening touch. One day, I shall feel the scar and be able to say, “It is indeed the seal of an unspeakable love.” Suddenly, I find myself singing more joyously than ever.

May the joy of the resurrection fill your heart this Easter!

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

(Tiếp tục suy niệm cùng ông Si-mon vác thánh giá đỡ Chúa Giêsu).

Con đường vẫn tiếp tục lên cao. Đầu óc tôi bắt đầu tê dại. Tai họa đang dần dần biến thành cái chết cận kề. Mỗi bước càng lúc càng nặng nề mệt nhọc. Ngọn giáo tên lính không để cho tôi một chút nghỉ ngơi. Tôi cứ bước từng bước một, chẳng thè để ý gì đến người bạn đồng hành. Một bước, hai bước, ba bước. Tôi há hốc mồm để thở. Hai đầu gối bất tuân lệnh tôi, cứ từ từ quỵ xuống. Tôi thoáng thấy thần chết lảng vảng chờ đợi. Trong óc tôi lóe lên hình ảnh vợ con và người mẹ già. Chúa ơi, xin cứu con.

Lời nói chưa dứt, tôi thấy như có ai chạm vào vai. Một dòng ấm áp chảy khắp thân thể tôi. Cùng với sự ấm áp đó, thân xác tôi phục hồi sức lực. Tôi mở vội mắt nhìn coi ai là kẻ đã cứu tôi. Chẳng có ai bên cạnh tôi, ngoài người đàn ông tội nghiệp. Cánh tay ông vẫn buông xuội xuống không còn sinh lực. Thỉnh thoảng một cơn gió thoảng qua, và chiếc áo choàng của ông đung đưa trong gió. Tôi liếc mắt nhìn ông dò hỏi. Ông ta cũng nhìn tôi nhưng lặng im không nói gì. Ước gì tôi có thể đọc được những ý tưởng trong đầu ông ta. Nhưng dù biết hay không biết kẻ giúp tôi là ai, tôi vẫn phải tiến bước. Cảm thấy sức khỏe đã phục hồi, tôi vững tin mình sẽ sống sót chặng đường khổ ải này.

Con đường vẫn tiếp tục lên giốc. Nguồn năng lực mà tôi đón nhận cách huyền diệu chẳng kéo dài được bao lâu. Ánh nắng mặt trời vẫn hừng hực rọi xuống trên thân thể hao mòn. Mắt tôi lại nẩy đom đóm. Đôi chân lại cứng đờ chẳng tuân lệnh. Biết mình sắp ngã quỵ nhưng lòng tôi lần này bớt sợ hãi. Tự trong thâm tâm, tôi hy vọng bàn tay thần diệu nào đó đã giúp tôi lần trước sẽ tiếp tục chạm vào vai tôi. Vì thế, tôi gắng gượng bước tới, chờ đợi nguồn sinh lực mới. Nhưng chờ mãi chẳng có gì xảy ra. Cả thân hình tôi chơi vơi hụt hẫng. Trong đầu tôi thoáng hình ảnh chiếc cây gỗ rớt xuống, đè nát thân thể đáng thương của tôi. Thôi rồi!  Tôi nghe mình la lên trong đầu, cảm giác như đang lao đầu vào vùng không gian thăm thẳm vô định và tăm tối không cùng. Tôi chờ nghe tiếng rơi bịch trên đất và tiếng xương vụn vỡ.

Nhưng rồi chẳng có tiếng rơi bịch. Cũng chẳng có tiếng xương gẫy nát. Cảm giác kế tiếp mà tôi cảm thấy là một bàn tay nắm chặt vai tôi. Từ bàn tay đó một luồng sinh lực chảy tràn khắp cơ thể tôi. Tôi mở mắt thật nhanh, hy vọng bắt kịp hình ảnh vị cứu tinh của mình. Đôi mắt căng to của tôi vẫn chẳng thấy bóng một ai xa lạ. Mọi chuyện chung quanh vẫn không có gì thay đổi. Cây gỗ vẫn còn trên vai. Đám lính vẫn cười đùa nham nhở. Người bạn đồng hành của tôi vẫn thinh lặng với đôi tay buông xuôi. Tuy nhiên, khi tôi bắt gặp đôi mắt ông, tôi cảm thấy một nỗi dịu dàng và ủi an khôn tả. Dường như ông ta muốn bảo tôi phải cố lên, vì vợ con và mẹ già vẫn còn đang mong đợi tôi ở nhà.

Phần còn lại của cuộc hành trình diễn ra thật nhanh. Cuối cùng, chúng tôi đến một nơi gọi là Núi Sọ. Gáng nặng giá gỗ của tôi được gỡ xuống. Riêng người đàn ông thì bị đè xuống trên cây gỗ. Tôi đứng nhìn tiếng búa nện thật mạnh trên những cây đinh dài. Tôi nghe tiếng đinh xuyên qua xương dòn tan. Tôi nhìn thân thể ông quằn quại đau đớn. Rồi họ treo ông trên cây giá gỗ giữa hai tên trộm cướp. Nhìn thân thể ông trĩu xuống trên giá gỗ, tôi có cảm giác như một phần thân thể tôi đang treo trên đó với ông.

Ông ta và tôi chỉ đồng hành bất đắc dĩ trong một khoảng khắc, nhưng tôi cảm nhận một sự nối kết lạ lùng giữa hai người. Sự tò mò nguy hại, túi tiền đã mất, chiếc giá gỗ nặng nề, vết cắt trên vai, và nhất là nguồn sinh lực lạ lùng tôi đã đón nhận, tất cả đều là một phần của một cuộc gặp gỡ lạ kỳ. Tôi tự hỏi không biết tôi đã giúp ông ta hay ông ta đã giúp tôi.

  Trên con đường xuống núi trở về nhà, lòng tôi ngổn ngang trăm mối. Phải chăng cuộc gặp gỡ giữa ông ta và tôi chỉ là sự tình cờ? Ông ta có phải là Con Một Thiên Chúa như một vài người đã nói không? Tôi xoa nhẹ đôi vai. Túi tiền không còn nữa. Thay vào đó là vết cắt còn tươi. Nhưng tôi không cảm thấy tiếc nuối gói tiền chút nào. Sự mất mát chỉ còn như một vết lăn tăn gợn sóng trên một đại dương an bình đang phủ lấp trái tim tôi. Tôi chạm vào vết đứt trên vai. Vết thương vẫn còn tê buốt, nhưng cùng lúc đó tôi cảm nhận một sự ngọt ngào sâu thẳm của bàn tay huyền diệu nào đó đã chạm vào tôi trong lúc sắp ngã quỵ vì giá gỗ. Với thời gian, vết thương sẽ lành. Với nỗ lực, số tiền mất sẽ kiếm lại được. Trong khi đó, hồng ân và niềm an bình diệu vợi của cuộc gặp gỡ sẽ còn ở với tôi mãi mãi.

Không, cuộc gặp gỡ lạ lùng đó không phải là sự tình cờ nhưng là một chén đắng hồng phúc. Sự mất mát cũng là sự cho đi. Vết thương thân xác là sự dịu ngọt của tâm hồn. Một ngày nào đó, tôi sẽ sờ vào vết sẹo và có thể nói rằng, Đây thực sự là dấu ấn của một tình yêu không nói được thành lời. Nghĩ tới đó, đôi môi tôi bỗng cất lên một khúc hát đầy hân hoan cám tạ.

Nguyện xin niềm vui sống lại tràn ngập tâm hồn ông bà anh chị em trong ngày Phục Sinh!

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week April 13, 2025

April 13, 2025

Dear Parishioners,

As we enter the Holy Week, a blessed time to be with Jesus in the final days of his life, how would you want to spend your time with Jesus in these most crucial moments? How would you want to accompany him as he trembled, arrested, condemned, tortured, spat at, crucified, and writhed on the cross?

St. Ignatius suggested that the best way to accompany Jesus in his passion is to be one of the characters in Jesus’ story. In other words, putting ourselves in the shoes of that character, seeing what he saw, feeling what he felt, and hearing what he and others talk, would make the passion alive and transforming for us. Therefore, in this meditation, let’s put ourselves in the shoes of Simon, from Cyrene, a reluctant helper of Jesus.

Pause for a moment and quiet yourself, then let yourself go with Simon.

Carrying the sack full of money on my shoulders, I am exuberant. Not only was the crop abundant but also the sale was great. After many months of toil, I could now take a short break. My mind wanders with many plans. “I will buy new clothes for my wife and my children. Get a fat calf and celebrate. Some good wine too. Oh, I should never forget Mama. She has been quite lonely since father passed away. A nice pearl necklace for her wouldn’t be too much. What else?”  My day dreaming is suddenly cut off by loud noises from behind. Turning my head, I see a large crowd. “There has to be something spectacular going on.”  I stop and walk towards it.

The crowd is rather a mob with lots of shouting and screaming. Unable to see what is going on inside I decide to sneak in. As a young farmer I don’t have much trouble squeezing through the swarms. I keep a close watch on the sack to make sure it remains with me through this adventure. The closer I get to the center, the more raucous things become. I see the shining of some weapon flashing through the crowd. I press harder.

The last person I push is a small man. I use too much force and my body plunges forward into the open center. Staggering to gain control I realize an iron hand has grasped my shoulder. I look up angrily and am ready to curse. There my eyes meet the fiery stare of a Roman soldier. On his other hand is a spear whose cold steel blade points at my throat. I mumble an apology. His fingers on my shoulder clamp. He turns his head to his right and throatily says, “Can you help?”  My eyes follow his glance.

On the ground I see a big cross, and underneath it is a man. Part of the man’s face digs into the dirt. His eyes are closed and his mouth ajar. Blood stains are everywhere. Crawling on his gaunt face. Spotting here and there on his dirty clothes. Drying up on his hair. Fresh blood is still oozing from his scalp in which sharp spikes from a crown of thorns are deeply buried. Clearing my throat, I look at the soldier and ask, “What do you want me to do?” The man motions, “Pick up the cross.”

 Without saying a word, I lower to lift the cross. I can use only my right hand, because my left hand still holds on to my bag. The cross is very heavy, and I can’t pull it up with one hand. While my mind is working frantically to find a solution, the sack is violently snatched off my shoulder. “You need both hands to do that!”, the soldier barks. He feels the contents of the bag and laughs, “Wow, you are rich, huh? For now, you don’t need this.” He throws the bag to one of his men. 

Putting the yoke on my shoulders, I almost cry. Gone is my treasure. All my sweats and tears have just gone like smoke. Rage blazes within me. I want badly to jump over to the devilish soldier, but his sharp spear tells me not to. Instead, I turn to curse my stupid curiosity which got me into this disaster. “All my money gone and now with this terrible burden, what am I going to do?”, I moan to myself. As if to answer my questio, the soldier yells, “Let’s go!” There I go, wondering what is going to happen next. As I labor step by step forward, a soldier throws a bucket of water at the man on the ground. After a few seconds, the man regains consciousness and slowly gets up. He drags himself along my side with his head dropping.

I have now become the protagonist of this pitiful scene. Looking at the jeering mob, I never feel more stupid and miserable in my life. “Why would such a terrible thing like this happen to a simple, honest man like me? What about my family?”, I groan to God in my thought, “Part of my problem comes from this man.” My indignant eyes sweep at my unwanted companion. His pitiful half dead figure cools me down. “How could I blame him for this?”, I say to myself. As I trudge the cross along, I glance at him occasionally. “Who is he? He must have done some awful crime to deserve this kind of punishment.” Meanwhile the man continues to plod ahead in silence, his head still down.

In my young age and good health, the cross doesn’t seem too much of a burden at first. But as we start to go up a hill, things get worse and worse. The sun is getting hotter, and my heart is beating faster. Sweat soaks my cloak and is dripping down profusely. Stars begin to appear in my vision, and they jump all over. Stopping for a quick moment, I push the cross up from my shoulders with my hands to find a better contact point. Unexpectedly, my hands give out. The cross lands hard on my shoulders. I feel a burning pain in my nape. The sharp edge of the cross cuts deep into my flesh. The saline sweat is getting into the injury. I clench my jaws to hold back a cry.

Now, it is no longer just perspiration but also blood that are drenching my clothes. I probably don’t look much different from my dismal companion, except for the crown of thorns. All the while, the soldiers and the throng keep on talking and joking in oblivion.

… To be continued next week …

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Bước vào Tuần Thánh, một thời gian hồng phúc để ở bên Chúa Giêsu trong những ngày cuối đời của Người, chúng ta muốn dành thời gian của mình với Chúa Giêsu như thế nào trong những khoảnh khắc quan trọng nhất này? Chúng ta muốn đồng hành cùng Người như thế nào khi Người run rẩy, bị bắt, bị kết án, bị tra tấn, bị khạc nhổ, bị đóng đinh và quằn quại trên thập giá?

Thánh I-Nhã gợi ý rằng cách tốt nhất để đồng hành với Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn của Người là trở thành một trong những nhân vật trong câu chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta đặt mình vào vị trí của nhân vật đó, nhìn thấy những gì người đó đã thấy, cảm nhận những gì người đó đã cảm nhận, và lắng nghe những gì người đó và những người khác nói, sẽ làm cho cuộc khổ nạn trở nên sống động và chạm đến cuộc đời chúng ta. Do đó, trong bài suy niệm này, chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của ông Simon, người Cyrene, một người cộng tác miễn cưỡng của Chúa Giêsu.

Hãy dừng lại một lúc và tĩnh lặng, sau đó hãy để mình đi cùng Simon.

… Mang trên vai cái túi đầy tiền, lòng tôi thơ thới hân hoan. Mùa gặt vừa qua trúng lớn. Sau những tháng ngày cày bừa mệt mỏi, bây giờ tôi có thể nghỉ ngơi một thời gian. Tôi nghĩ đến những gì muốn làm. Sắm mấy bộ quần áo mới cho vợ con. Mua con bê thật béo làm tiệc ăn mừng với bạn bè. Kiếm mấy chai rượu thật ngon. Ồ chút xíu nữa quên bà cụ. Từ ngày ông cụ mất, bà cụ thật côi cút. Chắc mua cho bà cụ một xâu chuỗi ngọc trai. Không biết còn cần gì nữa không? Đang mơ mộng tính toán thì những ý nghĩ của tôi bị cắt ngang vì tiếng ồn ào. Quay đầu lại, tôi thấy một đám khá đông đang tiến tới. Hừm, chắc là có chuyện gì hấp dẫn đây. Tôi bước vội về phía họ.

Đám đông thật hỗn loạn với những tiếng quát tháo inh ỏi. Chẳng thấy được gì vì đông người, tôi tìm cách len lỏi vào. Là nông gia khỏe mạnh tôi cứ việc ủi tới dễ dàng, tay nắm chặt túi tiền trên vai. Càng đến giữa đám người tiếng chửi mắng càng to. Tôi thấy những mũi giáo sáng loáng phản chiếu ánh mặt trời. Tôi lủi mạnh hơn. Người cuối cùng bị tôi đẩy hơi nhỏ con nên hắn ta bị hất qua một bên, còn tôi té chúi nhủi xuống đất. Đang lồm cồm bò dậy, tôi chợt thấy một bàn tay như một gọng kìm bóp chặt vai. Bực mình, tôi trừng mắt quay lại, định dạy cho kẻ nào đó một bài học. Tôi bắt gặp đôi mắt dữ dằn của một tên lính La-mã. Một tay hắn bóp chặt vai tôi, tay kia cầm chiếc giáo chĩa vào cổ tôi. Tôi lắp bắp xin lỗi. Bàn tay trên vai xiết mạnh hơn làm tôi đau nhói. Hắn gầm gừ trong cổ, “Ta cần ngươi giúp một tay.”  Tôi nhìn theo ánh mắt hắn.

Trên mặt đất bụi mù là một tấm bản gỗ lớn và dầy. Bên dưới tấm gỗ đó là một người đàn ông. Mặt ông ta cắm vào mặt đất. Mắt nhắm nghiền, miệng hơi há ra để thở. Máu me loang khắp người. Bò ngoằn ngoèo trên mặt. Lấm tấm trên cái áo ướt đẫm mồ hôi. Khô cứng trên mái tóc rũ rượi. Máu tươi vẫn còn rỉ trên đầu, nơi những chiếc gai nhọn hoắt cắm vào thật sâu. Hắng giọng để che dấu nỗi sợ hãi, tôi hỏi tên lính, “Ông muốn tôi giúp gì?” Hắn ra dấu, “Mang dùm khúc gỗ.”

Không nói một lời, tôi lẳng lặng kéo cây gỗ khỏi người đàn ông. Tôi chỉ có thể dùng một tay, vì tay kia vẫn còn nắm chặt túi tiền. Cây gỗ khá nặng nên dù kéo hết sức với một tay, cây gỗ chẳng nhúc nhích. Tên lính cau mày, “Ngươi có phải Hercules đâu mà dùng một tay!” Hắn giựt mất túi tiền trên vai tôi, tay bóp nắn coi cái gì bên trong. Biết là tiền hắn bật cười ha hả, “Chà, giàu dữ ha? Tụi ta giữ giùm ngươi cái túi.” Hắn quẳng túi tiền cho một tên lính khác.

Đặt cây gỗ trên vai, tôi muốn phát khóc. Thôi rồi, công lao mồ hôi nước mắt cả năm trời đã tan theo mây khói. Một nỗi phẫn hận bùng lên trong lòng. Tôi muốn nhảy bổ lại cho tên lính mất dạy bài học, nhưng nhìn mũi giáo nhọn hoắt, tôi đành nuốt cơn giận. Tôi thầm nguyền rủa tính tò mò ngu xuẩn của mình. Tiền thì mất sạch, bây giờ lại thêm cái gánh nặng này, biết làm gì bây giờ? Như để trả lời cho nỗi than thở của tôi, tên lính thúc lưỡi giáo vào chân tôi, “Đi!” Tôi im lìm bước tới. Một tên lính tạt một ít nước vào mặt người đàn ông nằm trên đất. Ông từ từ tỉnh dậy và gượng gạo đứng lên. Rồi ông lê bước bên cạnh tôi.

Giờ đây không phải ông ta mà tôi trở thành nhân vật chính của tấm bi kịch. Nhìn đám đông đang hò hét, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình ngu ngốc khờ dại như lúc này. Tại sao hoạn nạn lại xảy ra cho một người hiền lành chất phát như tôi? Tôi có làm gì nên tội đâu? Rồi gia đình tôi sẽ ra sao? Tôi thầm trách Chúa sao để tôi ra thế này. Một phần tai họa của tôi là do người đàn ông bên cạnh. Tôi đưa đôi mắt giận dữ về phía ông ta. Đôi vai ông rũ xuống, mặt cứ cúi gằm, lầm lũi bước đi, máu vẫn rịn ra trên đầu. Lòng tôi dịu lại. Ông là ai mà bị đày đọa như vậy? Vừa nặng nề lê bước tôi vừa tự hỏi.

Đang tuổi sung sức, tôi nghĩ cây gỗ dù có nặng cũng không đáng sợ. Nhưng rồi đoạn đường bắt đầu lên giốc một cách đáng ngại. Mặt trời lên cao hơn. Tim tôi đập nhanh hơn. Mồ hôi tuôn ra như tắm. Từng bước âm thầm tôi lê. Càng đi giốc càng cao. Mắt tôi bắt đầu nổ đom đóm. Tôi dừng bước và đẩy mạnh cây gỗ trên vai cho khỏi tuột. Bất thình lình tay tôi như mất hết sức. Cây gỗ giáng mạnh xuống vai và cắt một vết khá sâu. Máu nóng ứa ra hòa lẫn với mồ hôi. Tôi cảm thấy như có lửa đốt trên vai. Tôi cắn chặt môi để khỏi bật lên tiếng rên. Mồ hôi tiếp tục chảy vào chỗ đứt. Bắp thịt vai tôi giật giật liên hồi.

Giờ đây không chỉ mồ hôi mà cả máu đang thấm ướt áo tôi. Bây giờ tôi trông cũng chẳng khác gì ông bạn đồng hành bất đắc dĩ của mình. Trong lúc đó, đám lính vẫn cười dỡn như không có gì xảy ra. 

Tiếp tục vào tuần tới

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week April 6, 2025

April 6, 2025

Dear Parishioners,

One day in 1980, a young Russian woman, named Tatiana Goricheva, crossed the Soviet border to freedom. Once in the West, she wrote a book about her conversion to Christianity, which had taken place in Russia. From earliest childhood, Tatiana had been a rebellious child. She hated the tyranny of Russia. She hated the people around her for putting up with this tyranny. She hated her parents for not protesting against it.

Tatiana sought escape from this cruel world by burying herself in books and reading. Eventually she went to college. There she distinguished herself as a brilliant student and scholar. But instead of fitting in with the other students, she associated with the low life of Russian society: drug users, alcoholics, prostitutes.

While living this divided life, she became interested in Eastern mysticism, especially the practice of yoga. One of her books on yoga suggested using the Lord’s Prayer as a mantra. A mantra is a series of words that a person repeats over and over while doing yoga exercises.

The meaning of the Lord’s Prayer began to sink into her slowly. She found it an incredibly beautiful prayer. And so, she began to read everything she could find on Christianity. The more she read about it, the more fascinated she became with Jesus.

Tatiana had been baptized as a child by her unbelieving parents. But she suspected it had been done more as a family tradition than as an expression of true Christian faith. So, at the age of 26, Tatiana was rebaptized. At this time, she also decided to make a full confession of her life to a priest.

She says: “I told the priest about my drunkenness and my sexual excesses, my unhappy marriages, the abortions, and my inability to love anyone.’’ When the confession was over, she was a changed person.

Jesus not only had forgiven her all her sins but had touched her deeply in the process. She went forth from the confession a new creation. Her encounter with Jesus bears a striking resemblance to the adulterous woman’s encounter with Jesus in today’s gospel.

Jesus, also, forgave the adulterous woman. Jesus, also, touched her deeply. She, too, went forth a new creation. The story of Tatiana and the story of the woman caught in adultery illustrate the purpose of Lent.

Both women were living lives that were going in the wrong direction. Both encountered the forgiving Jesus, and both were transformed by that encounter. The purpose of Lent is to take a close look at our lives to determine if it is going in the wrong direction.

If this is the case, then we should seek out the forgiving Jesus in the sacrament of Reconciliation, as Tatiana did. In that sacrament, Jesus will do for us what he did for Tatiana. He will forgive us our sins and send us forth a new creation.

This raises a serious question. Some people today are reluctant to go to confession. As one person put it, “I find myself confessing the same sins over and over. Why confess them at all?’’

To see how silly this attitude is, just consider our health. Because of our genes, each of us is born with certain physical weaknesses, like allergies, diabetes, high blood pressure, or high cholesterol. Would we stop taking medicine for these illnesses? We know what will happen when we stop taking allergy shots, high blood pills, or diabetic medicine. How about thirst and hunger? Do we stop drinking or eating?

Our spiritual health is much the same. We all have certain spiritual weaknesses, like tending to be impatient, critical of others, proud, selfish, and the like. Therefore, we must keep going back to confession, seeking forgiveness for failures related to these spiritual weaknesses.

At the minimum, confession is like taking a shower for the soul. We will feel refreshed and alive. But who knows, we might be touched by the compassionate Jesus and become a new person, like Tatiana and the adulterous woman. Life begins to take on a joyful and meaningful turn.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Một ngày nọ vào năm 1980, một phụ nữ trẻ người Nga tên là Tatiana Goricheva đã vượt biên giới Liên Xô để tìm tự do. Khi đã đến phương Tây, cô đã viết một cuốn sách về quá trình đón nhận niềm tin Kitô giáo của mình, diễn ra ở Nga. Ngay từ khi còn nhỏ, Tatiana đã là một đứa trẻ nổi loạn. Cô ghét chế độ chuyên chế của Nga. Cô ghét những người xung quanh mình vì đã phải chịu đựng chế độ chuyên chế này. Cô ghét cha mẹ mình vì đã không dám phản đối nó.

Tatiana tìm cách thoát khỏi thế giới tàn khốc này bằng cách vùi mình vào sách vở. Cuối cùng, cô đã vào đại học. Ở đó, cô tự chứng minh mình là một sinh viên và học giả xuất sắc. Nhưng thay vì hòa nhập với những sinh viên khác, cô lại gắn bó với cuộc sống thấp kém của xã hội Nga: người sử dụng ma túy, người nghiện rượu, gái mại dâm.

Trong khi sống cuộc sống phân cực này, cô bắt đầu quan tâm đến chủ nghĩa thần bí phương Đông, đặc biệt là việc thực hành yoga. Một trong những cuốn sách về yoga của cô gợi ý sử dụng Kinh Lạy Cha như một câu tâm niệm. Một câu tâm niệm là một chuỗi ngắn các từ mà một người lặp đi lặp lại nhiều lần trong khi tập các bài tập yoga.

Ý nghĩa của Kinh Lạy Cha bắt đầu thấm dần vào cô. Cô thấy đó là một lời cầu nguyện vô cùng đẹp đẽ. Và thế là, cô bắt đầu tìm tòi mọi tài liệu cô có thể tìm thấy về Kitô giáo. Càng đọc, cô càng bị cuốn hút bởi Chúa Giêsu.

Tatiana đã được rửa tội khi còn nhỏ bởi cha mẹ không tin đạo của cô. Nhưng cô nghi ngờ rằng đó là một truyền thống gia đình hơn là một biểu hiện của đức tin Kitô thực sự. Vì vậy, ở tuổi 26, Tatiana đã được rửa tội lại. Vào thời điểm này, cô cũng quyết định thú nhận toàn bộ cuộc đời mình với một linh mục.

Cô ấy nói: “Tôi đã kể với vị linh mục về những cơn say xỉn và những hành vi tình dục bừa bãi của mình, những cuộc hôn nhân không hạnh phúc, những lần phá thai và việc tôi không thể yêu bất kỳ ai.’’ Khi lần xưng tội cả đời kết thúc, cô ấy đã trở thành một con người khác.

Chúa Giêsu không chỉ tha thứ cho cô mọi tội lỗi mà còn chạm đến cô ấy một cách sâu sắc trong suốt lần xưng tội đó. Cô ấy đã bước ra từ tòa giải tội như một tạo vật mới. Cuộc gặp gỡ của cô với Chúa Giêsu có sự tương đồng đáng kinh ngạc với cuộc gặp gỡ của người phụ nữ ngoại tình với Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay.

Chúa Giêsu cũng đã tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa Giêsu cũng đã chạm đến bà ta một cách sâu xa. Bà cũng đã trở nên một con người mới. Câu chuyện về Tatiana và câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình minh họa mục đích của Mùa Chay.

Cả hai người phụ nữ đều đang sống cuộc sống lầm đường lạc lối. Cả hai đều được Chúa Giêsu tha thứ và cả hai đều được biến đổi bởi cuộc gặp gỡ đó. Mục đích của Mùa Chay là để xem xét kỹ lưỡng cuộc sống của chúng ta để xác định xem chúng ta có đi sai hướng không.

Nếu đúng như vậy, thì chúng ta nên tìm kiếm ơn tha thứ từ Chúa Giêsu trong bí tích Hoà Giải, như Tatiana đã làm. Trong bí tích đó, Chúa Giêsu sẽ làm cho chúng ta những gì Người đã làm cho Tatiana. Người sẽ tha thứ tội lỗi cho chúng ta và biến chúng ta thành một tạo vật mới.

Điều này đặt ra một câu hỏi nghiêm trọng. Nhiều người ngày nay không muốn đi xưng tội. Có người đã nói, “Tôi thấy mình cứ xưng tội đi xưng tội những tội cũ. Như vậy xưng tội có ích gì?’’

Để thấy thái độ này ngớ ngẩn đến mức nào, chúng ta chỉ cần nhìn đến sức khỏe của mình. Do di truyền, mỗi người chúng ta sinh ra đều có một số yếu điểm về thể chất, như dị ứng, tiểu đường, huyết áp cao hoặc cholesterol cao. Chúng ta có ngừng uống thuốc chữa những căn bệnh này không? Chúng ta biết điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta ngừng tiêm thuốc dị ứng, thuốc điều trị cao huyết áp hoặc thuốc điều trị tiểu đường. Còn khát và đói thì sao? Chúng ta có ngừng uống hoặc ăn không?

Sức khỏe tâm linh của chúng ta cũng giống như vậy. Tất cả chúng ta đều có một số khuyết điểm về mặt tâm linh, như thiếu kiên nhẫn, thích chỉ trích người khác, lòng kiêu ngạo, tính ích kỷ, v.v. Do đó, chúng ta phải tiếp tục xưng tội, tìm kiếm sự tha thứ cho những thất bại liên quan đến những khuyết điểm tâm linh này.

Ít nhất, xưng tội cũng giống như tắm rửa cho tâm hồn. Chúng ta sẽ cảm thấy sảng khoái và sống động. Nhưng biết đâu, chúng ta có thể được Chúa Giêsu nhân hậu chạm đến và trở thành một con người mới, giống như Tatiana và người phụ nữ ngoại tình. Cuộc sống chúng ta sẽ bước vào một chân trời đầy an vui và ý nghĩa.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Mar. 30, 2025

Mar. 30, 2025

Dear Parishioners,

The most famous sculptor in the world is Micheangelo. Anyone who has been to Rome will see the statues of the Sorrowful Virgin Mary, Moses, and Saint Peter as masterpieces that cannot be missed. The bronze feet of Saint Peter have been touched by people for centuries, so much so that their feet are worn out. These statues are so lifelike that everyone admires and marvels at the unique genius of Micheangelo.

The more skillful and sophisticated a sculptor is, the more vivid and graceful the statue will be. Not only is the image vivid, but the spiritual essence of the sculpted character also radiates and touches the viewer. A statue starts out as a shapeless block of stone taken from the ground. And then with a rich imagination, skillful hands, and endless patience, a living person is formed. The wonder of a statue reflects the genius of the sculptor. Micheangelo’s creations are still praised and studied until the end of time.

Now let us look at our own statue in the mirror. We look at it countless times a day. What do we see? Is it lively and graceful or dull and lifeless? What kind of spirit is emanating from it? Looking at it, what do we think about the talent of the sculptor who created it?

Of all God’s creations, human is the most outstanding because we are the apex of creation. So why, when we look at ourselves in the mirror, do we not see vitality or ethereal essence? Has God’s talent been lost over time? Or has someone secretly destroyed and defiled that statue?

Each person is an immortal work of God and His talent is not lost over time. But creation is a continuous process from the beginning to the end of the world, not a one-time event. God did not create the universe and then let it go on its own, but He never stops, both preserving it to exist and shaping it according to His plan of salvation.

That means that the statue of each of us is still in the process of being molded and cultivated by God’s hands, until we complete our earthly journey. God wants to create each of us into a masterpiece in His image. So why do so few people look at themselves in the mirror and admire or feel their own elegant essence?

Unlike Michelangelo’s statues, which are inanimate objects and completely passive in the process of creation, God gives each of us the opportunity and ability to collaborate in His creative work. Human is the supreme creature because God has given us the freedom and the creative ability to collaborate with God.

When we freely choose to use our abilities to cooperate with God’s creative work, our statue is the work that God wants to create. When we refuse to cooperate with God, we make a statue of ourselves, refusing to let God’s hand continue to mold us. And the result of that refusal is that the statue we see in the mirror is the one we have created for ourselves.

At the same time, there are so many influences around us, especially the cunning hand of the devil, who always wants to intervene and mold us not according to the image of God but according to the image of the world and the devil. The more we let those bad influences corrupt us, the more lifeless and sad the statue we see in the mirror becomes.

That is the warning of Lent, the season of conversion, returning to God and collaborating with His wonderful hands to complete our statue according to His will. Without stopping, awakening, and returning to our Creator, the statue of our life will become increasingly ugly and frightening.

In today’s parable, the younger brother realized his foolishness and returned to his father. The younger brother created his own life, regardless of morality, and as a result became a hungry pig herder. When he saw everything reduced to black mud, the younger brother recognized the love of his old father and returned. The elder brother diligently fulfilled his duties but did not realize that everything that belonged to his father was also his own, so when he saw his father holding a party to celebrate his younger brother’s return, he felt that he was not loved by his father as much as his worthless younger brother. He was angry with his father for not understanding him, and hated his younger brother because he thought he deserved punishment rather than forgiveness. The elder brother’s statue was also the statue of the Pharisees and scribes. The younger brother’s statue was the statue of the repentant tax collectors and prostitutes.

Returning to our Creator is a chance to see the wonderful work that God wants us to become. If we keep pursuing our personal ambitions and passions, one day we will turn from a flashy and handsome persons into hungry pig herders. And those who, no matter how sad and pitiful their statue in the mirror is, still know how to return to the perfect Sculptor, their statue will become more and more vivid, graceful, and their quintessence will shine more and more, overwhelming the beholder.

Every day that we still breathe, we have the opportunity to carve the image of a person full of vitality and hidden spiritual essence. God’s creative hands are still waiting for our collaborative hands to join together to create a masterpiece that is gradually more perfect each day.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Điêu khắc gia nổi tiếng nhất thế giới là Micheangelo. Ai đã từng tới Rôma thì các bức tượng Đức Mẹ Sầu Bi, ông Môsê, và thánh Phêrô là các kiệt tác không thể bỏ qua. Riêng cái chân bằng đồng của thánh Phêrô thì đã bị con người rờ vào qua bao thế kỷ nên mòn cả bàn chân. Các bức tượng này sinh động như người thật làm ai cũng ngưỡng mộ trầm trồ cái thiên tài có một không hai của Micheangelo.

Một điêu khắc gia càng tài tình tinh xảo thì bức tượng càng sống động thanh thoát. Không chỉ hình ảnh sống động mà tinh hoa thần khí của nhân vật được tạc tượng đó còn toát ra chạm đến kẻ chiêm ngắm. Một bức tượng bắt đầu chỉ là một khối đá không hình dạng lấy lên từ lòng đất. Và rồi với một óc tưởng tượng phong phú, đôi tay tinh xảo, và một sự kiên nhẫn vô bờ, một con người sống động thành hình. Cái tuyệt vời của một bức tượng phản ánh thiên tài của điêu khắc gia. Sự sáng tạo của Micheangelo còn được ca ngợi và nghiên cứu cho tới tận thế.

Bây giờ chúng ta chiêm ngắm bức tượng của chính mình trong gương. Mỗi ngày chúng ta nhìn bức tượng ấy không biết bao nhiêu lần. Chúng ta thấy bức tượng đó ra sao? Sống động thanh thoát hay ảm đạm thiếu sinh khí? Tinh hoa thần khí gì toát ra từ bức tượng ấy? Nhìn bức tượng ấy chúng ta nghĩ gì về tài năng của người điêu khắc đã sáng tạo nên nó?

Trong mọi tạo vật của Thiên Chúa con người đứng hàng đầu vì là tác phẩm tột đỉnh. Thế thì tại sao khi nhìn mình trong gương, chúng ta không thấy sinh khí tràn trề hay tinh hoa thoát tục? Phải chăng tài nghệ của Thiên Chúa đã mai một theo thời gian? Hay có kẻ nào đó đã âm thầm phá hoại và làm nhơ nhuốc bức tượng ấy?

Mỗi người là một tác phẩm bất hủ của Thiên Chúa và tài nghệ của Người không hề mai một theo thời gian. Nhưng sự sáng tạo là một tiến trình liên tục từ nguyên thủy cho tới tận thế, chứ không phải là chỉ xảy ra một lần rồi hoàn tất. Thiên Chúa không tạo dựng vũ trụ rồi để mặc nó tự luân chuyển mà Người không bao giờ ngừng nghỉ vừa gìn giữ để nó tồn tại vừa uốn nắn nó theo kế hoạch cứu độ của Người.

Điều đó có nghĩa là bức tượng bản thân của mỗi người chúng ta vẫn con đang trong quá trình được nhào nặn và bồi đắp bởi bàn tay Thiên Chúa, cho tới lúc chúng ta hoàn tất hành trình dương thế. Thiên Chúa muốn tạo dựng từng người chúng ta thành một tuyệt tác theo hình ảnh của Người. Thế thì tại sao ít ai nhìn mình trong gương và trầm trồ ngưỡng mộ hay cảm nhận cái tinh hoa thanh thoát của mình?

Khác với các bức tượng của Micheangelo là các vật vô tri vô giác và hoàn toàn thụ động trong quá trình sáng tạo, Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta cơ hội và khả năng cộng tác vào công trình sáng tạo của Người. Con người là tạo vật tối cao vì con người được Thiên Chúa ban cho sự tự do và khả năng sáng tạo để cộng tác với Thiên Chúa.

Khi chúng ta tự do chọn lựa dùng khả năng của mình cộng tác với công trình sáng tạo của Thiên Chúa thì bức tượng của mình là tác phẩm mà Thiên Chúa muốn tạo dựng. Khi chúng ta từ chối cộng tác với Thiên Chúa thì chúng ta tự tạc bức tượng của mình, không thèm để bày tay Thiên Chúa tiếp tục nhào nặn nên mình. Và kết quả của sự từ chối ấy là bức tượng chúng ta nhìn thấy trong gương là do mình tự tạo cho mình.

Cùng một lúc có biết bao ảnh hưởng chung quanh, nhất là bàn tay xảo quyệt của ma quỷ, lúc nào cũng muốn xen vào nhào nặn uốn nắn chúng ta không theo hình ảnh của Thiên Chúa mà theo hình ảnh thế gian và ma quỷ. Càng để cho những ảnh hưởng xấu ấy làm tha hóa mình, bức tượng chúng ta thấy trong gương càng thiếu sinh khí và càng đáng buồn.

Đó là lời cảnh tỉnh của Mùa Chay, mùa của hoán đổi quay về với Thiên Chúa và cộng tác với đôi tay tuyệt diệu của người để hoàn thành bức tượng của mình theo thánh ý Người. Không dừng lại, cảnh tỉnh, và quay về với Đấng Tạo Dựng mình, bức tượng cuộc đời chúng ta sẽ càng ngày càng xấu xa đáng sợ.

Trong bài dụ ngôn hôm nay, người em đã nhận ra cái ngu xuẩn của mình và quay về với cha. Người em đã tự tạo cuộc sống theo ý mình, bất chấp luân thường đạo lý, và kết quả là làm kẻ chăn heo đói lả. Khi thấy mọi sự xuống tận bùn đen, người em còn nhận ra tình thương của cha già mà quay trở về. Còn người anh thì chăm chỉ chu toàn bổn phận nhưng lại không hề nhận ra tất cả những gì của cha mình cũng là của mình, nên khi thấy cha mở tiệc mừng đứa em trở về, anh ta cảm thấy mình không được cha yêu thương bằng thằng em không ra gì. Giận cha vì không hiểu cha, ghét em vì cho rằng em đáng bị trừng phạt hơn là tha thứ. Bức tượng của người anh cũng là bức tượng của mấy ông Pha-ri-sêu và kinh sư luật sĩ. Còn bức tượng của người em là bức tượng của mấy người thu thuế và gái điếm ăn năn trở về.

Quay trở về với Đấng Tạo Dựng mình là còn có cơ hội nhìn thấy tác phẩm tuyệt vời Thiên Chúa muốn mình trở thành. Còn cứ lao đầu theo đuổi tìm kiếm những tham vọng đam mê cá nhân thì từ một kẻ hào nhoáng bảnh bao sẽ có ngày thành tên chăn heo đói lả. Còn những ai dù thấy bức tượng mình trong gương đáng buồn đáng tủi tới bao nhiêu mà còn biết quay về với Đấng Điêu Khắc Gia toàn mỹ thì bức tượng của mình càng ngày càng sinh động thanh thoát và tinh hoa càng tỏa sáng chinh phục kẻ chiêm ngưỡng.

Từng ngày chúng ta còn thở thì còn có cơ hội khắc nên hình ảnh một con người đầy sức sống và ẩn tàng tinh hoa thần khí. Đôi tay sáng tạo của Thiên Chúa vẫn đang chờ bàn tay cộng tác của chúng ta cùng hòa hợp đề rồi một kiệt tác từ từ mỗi ngày thêm hoàn mỹ.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Weekly Message – Mar. 23, 2025

March 23, 2025

Dear Parishioners,

In our Catholic tradition, there are two categories of sins: sins of commission and sins of omission. Sins of commission are those we are commanded by God not to do and we did, like the ten commandments. Sins of omission are those commanded by God to do but we don’t do them, like, do good things to others what you want to be done to you.

Unfortunately, in confession most people focus on the sins of commission, things that we should not do but did. And most people never consider the sins of omission, things we should do but didn’t. The parable of the fig tree addresses that category of sins of omission.

Let’s pose a couple of questions. First, you pay arms and legs for your children’s tuition, but they don’t want to study hard, instead just fooling around in school. How would you feel? Second, you are lucky enough to have very successful children, who make tons of money. And when you invite them to your 25th wedding anniversary, they come to the party, but they bring no gifts whatsoever. How would you feel?

The greatest sin of omission is to do nothing with all that God has given to you. A fig tree is supposed to produce fruits after three years of planting. When the owner comes to claim his fruits, there is none.

Remember the story of Lazarus and the rich man? Lying at the door of the rich man, Lazarus longed for the food crumbs falling from the banquet table of the rich man. But he gets nothing. Consequences: The rich man lies in hell, and Lazarus in Abraham’s bosom. The story never mentions anything wrong that the rich has done, only the good thing that he fails to do. Doing nothing for a person in dire need has damned the rich man forever. That is his greatest sin.

Remember also the parable of the master and his three servants? Before the master leaves home on a trip, he gives one servant five talents, another two talents, and another one talent. One talent is equivalent to one thousand gold coins. When the master returns, he greatly rewards the first two servants who have made profits from what they were given. But the third servant has made nothing from what he was given. Listen to what the master tells the third servant, “As for this useless servant, throw him into the darkness outside, where there will be wailing and grinding of teeth.” Doing nothing with all that God has given us is the greatest sin of omission.

The good news for us today is what the owner of the barren fig tree does: he gives it a second chance. Every one of us has been given so much by God: life, health, education, opportunity, jobs, family, and friends; also, faith, hope, and love. What have we done with them? Keeping them for ourselves only amounts to doing nothing for others. The parable of the fig tree is a stark warning for us. We are living on our second chance. There will be no third chance.

So, we must make the best use of our second chance now, both when we come to confession and in our daily living. We must confess both the sins of commission and the sins of omission in order to have a fruitful confession and to show genuine repentance. In our daily living, we must constantly ask ourselves: How have I been using all the gifts that God has given me?

The opportunities for using our time, talents, and treasure for God’s greater glory and for the wellbeing of our brothers and sisters are infinite. The poor have been crying out to God. Our diocese is inviting us through the ADA. Our parish needs financial support and volunteers in ministries.

Giving to God ten percent of what we have received is not only the best investment in this life, but also the most productive investment in the life after. In human accounting, four-fold profit is the best scenario possible. But in the divine accounting, one seed can produce a thirty-, sixty-, and even a hundred-fold.

Let’s live our second chance the best way possible.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Trong truyền thống Công giáo của chúng ta, có hai loại tội: tội đã phạm và tội thiếu sót. Tội đã phạm là những tội mà Chúa truyền cho chúng ta không được làm và chúng ta đã làm, giống như mười điều răn. Tội thiếu sót là những tội mà Chúa truyền cho chúng ta phải làm nhưng chúng ta không làm, thí dụ, làm những điều tốt cho người khác những điều chúng ta muốn người khác làm cho mình.

Thật không may, khi đi xưng tội, hầu hết mọi người tập trung vào tội đã phạm, những điều chúng ta không nên làm nhưng đã làm. Và hầu hết mọi người không bao giờ xem xét đến tội thiếu sót, những điều chúng ta nên làm nhưng đã không làm. Dụ ngôn về cây sung đề cập đến loại tội thiếu sót đó.

Hãy đặt một vài câu hỏi. Đầu tiên, cha mẹ phải trả tiền học phí cao cho con cái, nhưng chúng không muốn học mà chỉ muốn chơi bời ở trường. Cha mẹ sẽ cảm thấy thế nào? Thứ hai, cha mẹ may mắn để có những đứa con rất thành đạt, kiếm được rất nhiều tiền. Và khi họ mời con cái đến dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày cưới, chúng đến dự tiệc, nhưng chúng không mang theo bất kỳ món quà nào. Họ sẽ cảm thấy thế nào?

Tội thiếu sót lớn nhất là không làm gì với tất cả những gì Chúa đã ban cho mình. Một cây vả lẽ ra phải ra quả sau ba năm trồng. Khi chủ đến tìm quả, không có quả nào cả.

Chúng ta còn nhớ câu chuyện về Ladarô và người giàu không? Nằm ở cửa nhà người giàu, Ladarô khao khát những mẩu thức ăn rơi xuống từ bàn tiệc của người giàu. Nhưng anh ta chẳng nhận được gì cả. Hậu quả: Người giàu nằm dưới địa ngục, còn Ladarô nằm trong lòng Abraham. Câu chuyện không bao giờ đề cập đến bất cứ điều gì sai trái mà người giàu đã làm, chỉ đề cập đến điều tốt mà anh ta không làm. Việc không làm gì cho một người đang đói lả đã khiến người giàu phải chịu án phạt đời đời. Đó là tội lỗi lớn nhất của anh ta.

Chúng ta hẳn còn nhớ ngụ ngôn về người chủ và ba người đầy tớ không? Trước khi rời nhà đi công tác, ông đưa cho một người đầy tớ năm nén vàng, một người khác hai nén và một người khác một nén. Một nén tương đương với một nghìn đồng vàng. Khi người chủ trở về, ông thưởng rất hậu cho hai người đầu tiên đã kiếm lời từ những gì họ được giao. Nhưng người đầy tớ thứ ba chẳng làm gì với những gì mình được ban cho. Hãy nghe lời người chủ nói với người đầy tớ thứ ba: “Còn tên đầy tớ vô dụng này, hãy quăng nó ra ngoài tối tăm, nơi sẽ có tiếng than khóc và nghiến răng.” Không làm gì với tất cả những gì Chúa đã ban cho chúng ta là tội thiếu sót lớn nhất.

Tin mừng cho chúng ta ngày nay là những gì người chủ của cây vả cằn cỗi đã làm: ông cho nó một cơ hội thứ hai. Mỗi người trong chúng ta đều được Chúa ban cho rất nhiều: cuộc sống, sức khỏe, giáo dục, cơ hội, công việc, gia đình và bạn bè; cũng như đức tin, đức cậy và đức mến. Chúng ta đã làm gì với chúng? Giữ chúng cho riêng mình có nghĩa là không làm gì cho người khác. Dụ ngôn về cây vả là một lời cảnh báo nghiêm khắc. Chúng ta đang sống trong cơ hội còn lại của mình. Sẽ không có cơ hội thứ ba.

Vì vậy, chúng ta phải tận dụng tốt nhất cơ hội còn lại của mình ngay bây giờ, khi chúng ta xưng tội cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta phải xưng tội cả tội đã phạm và tội thiếu sót để có một lần xưng tội hiệu quả và thể hiện sự ăn năn thực sự. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải liên tục tự hỏi: Tôi đã sử dụng tất cả những món quà mà Chúa ban cho mình như thế nào?

Có vô số cơ hội để sử dụng thời gian, tài năng và của cải của chúng ta cho vinh quang lớn hơn của Chúa và cho hạnh phúc của anh chị em chúng ta. Người nghèo đã kêu cầu Chúa. Giáo phận của chúng ta đang mời gọi chúng ta thông qua ADA. Giáo xứ của chúng ta cần hỗ trợ tài chính và tình nguyện viên trong các mục vụ.

Dâng cho Chúa mười phần trăm những gì chúng ta đã nhận được không chỉ là khoản đầu tư tốt nhất trong cuộc sống này mà còn là khoản đầu tư hiệu quả nhất cho cuộc sống sau này. Trong kế toán của con người, lợi nhuận gấp bốn lần là kịch bản tốt nhất có thể. Nhưng trong kế toán của Chúa, một hạt giống có thể tạo ra gấp ba mươi, sáu mươi và thậm chí là một trăm lần.

Hãy sống cơ hội còn lại của chúng ta cách nào tốt nhất.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Mar. 16, 2025

March 16, 2025

Dear Parishioners,

The Transfiguration event in today’s Gospel occurred just before Jesus entered Jerusalem, where he would suffer and die. Therefore, to strengthen the apostles in their journey of suffering, Jesus revealed the hidden glory of his Messiahship. The apostles, and especially each of us, must never forget that Jesus is both human and divine.

The divine and the human natures were always present and active in Jesus’ earthly life. When we forget either of these two natures, we will have a short-sighted view or misjudge an incident or action of Jesus. The human nature of Jesus reminds us that there is no experience or suffering that Jesus does not understand and sympathize with. His divinity invites us to trust that no matter how difficult or complex the situation, God is still actively carrying out His plan of salvation. There are miracles or events that are beyond human ability and understanding, but are still completely in the hands of God’s, and we must trust and cooperate.

Besides, when the Bible reveals that humans are created in the image of God, the Bible also affirms that: each of us, in addition to our human nature, also shares a part of God’s divinity. The divine dimension in us is both our quintessential character and the thing we forget most often. Unaware of our divinity, we let our humanity dictate our thought, word, and action. And instead of becoming better and holier, we gradually sink into the darkness of sin and death. Instead of progressing, we keep regressing, while the devil constantly tempts and sways us. As a result, we do not experience happiness but only face suffering clinging to our every step.

The transfiguration of Jesus requires us to awaken and nurture the divine nature that God has given us, so that our lives will become more peaceful and happy, and the joy of the Kingdom of Heaven will increasingly permeate our lives. The perfect brilliance of Jesus has been given to us and is also hidden within us. The problem is how not to let our dark, selfish humanity obscure and suffocate that precious, sublime divine nature. On the contrary, we need to let that divine nature influence and guide our lives and sanctify our humanity. If we do so, we will become more and more conformed to Christ.

Everyone desires the beauty of Princess Diana or the nobility of the couple Ivanka Trump and Jared Kushner. Even a disabled but extremely intelligent person like Stephen Hawking is admired by many people. But everyone knows that over time, beauty will fade, fame will die, and the mind will decline. What is attached to the body, to humanity, will return to dust together with the body. Meanwhile, the holiness of a Teresa of Calcutta, the nobility of the apostle to lepers, Damien, have not faded but have become more radiant with time. What belongs to the divine nature is eternal and boundless.

The event of the Transfiguration also teaches us the secret to awakening and enlivening the divine nature in man. The Gospel clearly says: “While Jesus was praying, the appearance of his face changed, and his clothes became dazzling white.” The divine nature of Jesus shone forth as he conversed with the Father. At the same time, “Peter and his companions were overcome with sleep; but when they awoke, they saw the glory of Jesus and the two men standing with him.” Only when Peter, John, and James were truly awake could they recognize the divine nature of the Master. Vigilance and prayer are the surest secret to discovering and nurturing the divine nature in us.

True prayer always transfigures human. The core of prayer is union with God. It can be through feelings, words, or actions. Prayer is not synonymous with reciting words, especially praying like a machine as the mind wanders somewhere else. On the contrary, just a sense of God’s presence beside us, a word of thanksgiving for what we have, a brief attention to God, a kind gesture done in God’s name, a longing for God wherever we are and whatever we are doing, are the starting points for prayer. Once we feel united with God, we are immersed in prayer and begin to be transformed. Then our divinity is strengthened and made to grow by God.

Before Jesus was baptized, he prayed by the Jordan River and the heavens opened. Before Jesus entered Jerusalem, he prayed on the mountain and his face was radiant. Before Jesus was arrested, he prayed in the Garden of Gethsemane, and angels came to comfort him. Whoever cherishes his divinity must also be vigilant in prayer. When beauty fades, fame dies, and the mind darkens, then peace, trust, and hope will be the angelic wings that lead us to heaven. We will receive eternal treasures in heaven and leave our descendants on earth a legacy that will never fade.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Biến cố hiển dung trong bài Phúc Âm hôm nay xảy ra ngay trước khi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem, nơi Người sẽ chịu thương khó và chết. Vì thế, để củng cố các tông đồ trong hành trình khổ nạn, Chúa Giêsu đã tỏ lộ vinh quang chói lòa tiềm ẩn trong căn tính Cứu Thế của mình. Các tông đồ và nhất là từng người chúng ta không bao giờ được phép quên rằng Chúa Giêsu vừa là con người vừa là Thiên Chúa.

Thiên tính và nhân tính lúc nào cũng hiện hữu và tác động trong cuộc sống dương thế của Chúa Giêsu. Khi chúng ta quên đi một trong hai bản tính đó của Người, chúng ta sẽ có cái nhìn thiển cận hay phán đoán sai lầm về một sự cố hay hành động của Chúa Giêsu. Nhân tính của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng không có cảm nghiệm hay khổ đau nào của chúng ta mà Chúa Giêsu không hiểu thấu và cảm thông. Thiên tính của Người mời gọi chúng ta tín thác rằng dù hoàn cảnh khó khăn phức tạp đến đâu, Thiên Chúa vẫn chủ động tiến hành kế hoạch cứu độ của Người. Có những dấu lạ hay biến cố vượt trên khả năng và sự hiểu biết của con người, nhưng vẫn hoàn toàn nằm trong bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, và chúng ta phải tin tưởng và cộng tác.

Bên cạnh đó, khi Kinh Thánh mặc khải rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa thì Kinh Thánh cũng khẳng định rằng: mỗi người chúng ta ngoài bản tính nhân loại cũng được chia sẻ một phần thiên tính của Thiên Chúa. Chiều kích thiên tính nơi chúng ta vừa là những gì tinh hoa tuyệt vời nhất của mình vừa là điều chúng ta hay quên nhất. Không ý thức về thiên tính của mình, chúng ta cứ để mặc cho nhân tính lèo lái mọi ý nghĩ, lời nói, và hành động. Và thay vì trở nên tốt lành thánh thiện hơn, chúng ta lại chìm dần vào bóng tối tội lỗi và sự chết. Thay vì thăng tiến, chúng ta cứ ngày càng thụt lùi, trong khi ma quỷ thì không ngừng cám dỗ lung lạc chúng ta. Kết quả là hạnh phúc đâu chẳng thấy mà chỉ thấy khổ đau chập chùng cuốn chặt mỗi bước đi.

Biến cố hiển dung của Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải đánh thức và dưỡng nuôi phần thiên tính mà Thiên Chúa đã ban cho mình, để cuộc sống ngày càng an bình hạnh phúc, và niềm vui Nước Trời ngày càng thẩm thấu đời mình. Sự sáng láng tuyệt hảo nơi Chúa Giêsu đã được ban phát cho chúng ta và cũng tiềm ẩn trong chúng ta. Vấn đề là làm sao đừng để cho cái nhân tính ích kỷ tối tăm của mình che khuất bóp nghẹt cái thiên tính cao vời trân quý ấy. Mà ngược lại, để thiên tính ấy tác động và hướng dẫn cuộc sống mình, thánh hóa nhân tính mình. Được như thế thì chúng ta ngày càng đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.

Ai cũng ao ước nét đẹp của công nương Diana hay vẻ quý phái của cặp vợ chồng Ivanka Trump và Jared Kushner. Ngay cả một người tàn tật nhưng thông minh tuyệt đỉnh như Stephen Hawking cũng là niềm ngưỡng mộ của bao người. Nhưng ai cũng biết, theo năm tháng, dung nhan sẽ tàn úa, danh vọng sẽ tiêu tan, trí óc sẽ lu mờ. Những gì gắn liền với xác thân, với nhân tính, sẻ trở về với cát bụi theo thân xác. Trong khi đó, sự thánh thiện của một Têrêsa Can-quýt-ta, vẻ cao thượng của một tông đồ người cùi Damien đã không phai mờ mà còn rực rỡ hơn theo thời gian. Những gì thuộc về thiên tính thì trường cửu vô biên.

Biến cố hiển dung cũng dạy cho chúng ta cái bí quyết để khơi dậy và làm sống động thiên tính nơi con người. Tin Mừng nói rõ: “Đang lúc Chúa Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.” Thiên tính của Chúa Giêsu bừng lên tỏa sáng khi Người đàm đạo với Chúa Cha. Cùng một lúc, “Ông Phêrô và đồng bạn ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người.” Chỉ khi nào Phêrô, Gioan và Giacôbê thực sự tỉnh táo các ông mới có thể nhận ra thiên tính của Thầy. Tỉnh thức và cầu nguyện là bí quyết chắc chắn nhất để khám phá và dưỡng nuôi thiên tính nơi chúng ta.

Sự cầu nguyện chân thực luôn luôn làm hiển dung con người. Cốt lõi của sự cầu nguyện là sự kết hợp với Thiên Chúa. Có thể qua tâm tình, lời nói, hoặc hành động. Cầu nguyện không đồng nghĩa với đọc kinh, nhất là đọc kinh như cái máy mà đầu óc bay bổng nơi nào. Trái lại, chỉ một ý thức về sự hiện diện của Chúa bên cạnh, một lời tạ ơn Chúa cho những gì mình có, một chút hướng lòng lên cùng Chúa, một cử chỉ tử tế làm vì danh Chúa, một tâm tình khao khát Chúa ở bất cứ nơi nào và bất kể đang làm gì, đều là khởi điểm cho sự cầu nguyện. Một khi ta cảm nhận sự kết hiệp với Chúa là lúc mình chìm đắm trong cầu nguyện và bắt đầu được biến đổi. Khi ấy, thiên tính nơi mình được Chúa củng cố và làm tăng trưởng.

Trước khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Người cầu nguyện bên dòng sông Giođan và tầng trời mở ra. Trước khi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem, Chúa cầu nguyện trên núi và dung mạo Người sáng láng. Trước khi Chúa Giêsu bị bắt, Người cầu nguyện trong vườn Giệtsimani, và các thiên sứ đến hầu cận ủi an. Ai trân quý thiên tính của mình thì cũng phải tỉnh thức cầu nguyện. Để rồi khi nhan sắc tàn phai, danh vọng mịt mờ, đầu óc trì trệ, thì sự an bình, niềm tín thác, và lòng hy vọng sẽ là những đôi cánh thiên thần dẫn đưa về thiên quốc. Vừa đón nhận kho tàng vĩnh cửu trên trời, vừa để lại cho con cháu dưới thế một gia sản không bao giờ tàn phai.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Mar. 9, 2025

Dear Parishioners,

The three temptations that Satan dangled in front of Jesus in the desert represent the three most successful tactics in seducing people. The first bait is material abundance, particularly pleasure and money; the second is fame and honor; and the third is power and pride. All regimes and tyrants in human history have used these tactics, from the conquest of the Roman empires to the current Russian ambition, from communism to capitalism. Given enough pleasure, fame, and power, the crowds will be easily manipulated. No wonder even some religions use material things to attract followers.

For Jesus, the three temptations became extremely dangerous. First, there is nothing more attractive than a hot loaf of bread when the stomach rumbles. Secondly, everything Satan lured Jesus to do was within His power, as easy as the flick of a finger. During his public life, Jesus multiplied loaves and fish and cured many diseases, so much so that people wanted to make him king. The easier and more attractive the trap, the more sinister it is.

Not only did Satan use these tactics against Jesus, but he continues to use them to seduce, mislead, and manipulate each of us. The more knowledge, authority, or responsibility one possesses, the more sophisticated and cunning the temptations. Indeed, all those who direct their lives to money, pleasure, power, and worldly glory are just nameless minions of the devil. What are your concrete temptations?

Lent is an opportunity for us to stay awake, to realize where we are going, and especially where we want to reach. Jesus himself had to spend 40 days in the desert to prepare for his mission. Thus, we have no choice but to prepare ourselves for our own wilderness, if we want to conquer temptations and find purpose, meaning, and freedom for our life.

The important lesson today is: How did Jesus break free from the stranglehold of these temptations? To counter the three powerful tactics of the devil, Jesus recalled three truths from the book of Deuteronomy: first, the fullness of life comes from the Word of God rather than bread; second, only the authority of God is the ultimate and rightful authority; third, the highest honor comes from God and not from the world. The three tactics of the demon are neutralized by the wisdom and power that come from the Word of God, the word of life, the word of truth, the word of deliverance.

Everyone must face wilderness in life. So, I suggest that when the wilderness is surrounding us, recall the words of Jesus, “Nothing is impossible with God.” And then say to God, “Lord, I don’t understand why You’ve brought me here. But I’m placing all my trust in You. Please teach me what You want me to learn here. Please make me into the person You want me to be.”

Also, remember that pleasure, fame, and power are nothing but the blackholes of human experience. The more you have them, the more you thirst for them. Just look at what is going on now with Vladimir Putin of Russia and Xi Jinping of China. These two tyrants will never stop grabbing for more wealth, fame, and power until they collapse.

Like Jesus, the transforming solace in the wilderness of life for us is the Word of God. The Word is still the most effective means for those who seek truth, goodness, and beauty, for the souls that long for freedom and peace, for the revolutionaries of the heart. Both heaven and earth will pass away, together with our wilderness and pain. But the Word of God will last forever.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Ba cám dỗ mà Satan giăng trước mặt Chúa Giêsu trong sa mạc tượng trưng cho ba chiến thuật thành công nhất trong việc quyến rũ con người. Mồi nhử đầu tiên là sự sung túc về vật chất, đặc biệt là lạc thú và tiền bạc; thứ hai là danh tiếng và danh dự; và thứ ba là quyền lực và lòng kiêu hãnh. Tất cả các chế độ và bạo chúa trong lịch sử loài người đều sử dụng những chiến thuật này, từ cuộc chinh phục của các đế chế La Mã đến tham vọng hiện tại của Nga, từ chủ nghĩa cộng sản đến chủ nghĩa tư bản. Khi có đủ lạc thú, danh tiếng và quyền lực, đám đông sẽ dễ dàng bị thao túng. Không có gì ngạc nhiên khi ngay cả một số tôn giáo cũng sử dụng những thứ vật chất để thu hút tín đồ.

Đối với Chúa Giêsu, ba cám dỗ trở nên cực kỳ nguy hiểm. Thứ nhất, không có gì hấp dẫn hơn một ổ bánh mì nóng hổi khi bụng đói cồn cào. ​​Thứ hai, mọi thứ Satan dụ dỗ Chúa Giêsu làm đều nằm trong khả năng của Ngài, dễ dàng như một cái búng tay. Trong suốt cuộc đời công khai của mình, Chúa Giêsu đã nhân bánh mì và cá lên và chữa lành nhiều bệnh tật, đến nỗi mọi người muốn tôn Ngài lên làm vua. Cái bẫy càng dễ dàng và hấp dẫn thì càng nham hiểm.

Satan không chỉ sử dụng những chiến thuật này chống lại Chúa Giêsu mà còn tiếp tục sử dụng chúng để quyến rũ, lừa dối và thao túng mỗi người chúng ta. Càng có nhiều kiến ​​thức, quyền hạn hoặc trách nhiệm, thì những cám dỗ càng tinh vi và xảo quyệt. Thật vậy, tất cả những ai hướng cuộc sống của họ đến tiền bạc, thú vui, quyền lực và vinh quang thế gian chỉ là những tay sai vô danh của ma quỷ. Những cám dỗ của bạn là gì?

Mùa Chay là cơ hội để chúng ta tỉnh thức, nhận ra mình đang đi đâu và đặc biệt là nơi chúng ta muốn đến. Chính Chúa Giêsu đã phải dành 40 ngày trong sa mạc để chuẩn bị cho sứ mệnh của mình. Vì vậy, chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chuẩn bị cho sa mạc của riêng mình, nếu chúng ta muốn chiến thắng những cám dỗ và tìm thấy mục đích, ý nghĩa và sự tự do cho cuộc sống của mình.

Bài học quan trọng hôm nay là: Chúa Giêsu đã thoát khỏi sự kìm kẹp của những cám dỗ này như thế nào? Để chống lại ba chiến thuật mạnh mẽ của ma quỷ, Chúa Giêsu đã nhắc lại ba sự thật từ sách Đệ Nhị Luật: thứ nhất, sự sống viên mãn đến từ Lời Chúa chứ không phải từ bánh mì; thứ hai, chỉ có thẩm quyền của Chúa mới là thẩm quyền tối cao và hợp pháp; thứ ba, vinh dự cao nhất đến từ Chúa chứ không phải từ thế gian. Ba chiến thuật của ma quỷ bị vô hiệu hóa bởi sự khôn ngoan và quyền năng đến từ Lời Chúa, lời sự sống, lời lẽ chân lý, lời giải cứu.

Mọi người đều phải đối mặt với sự hoang vu trong cuộc sống. Vì vậy, tôi đề nghị rằng khi sự hoang vu bao quanh chúng ta, hãy nhớ lại lời của Chúa Giêsu, “Không có gì là không thể với Chúa.” Và sau đó nói với Chúa, “Lạy Chúa, con không hiểu tại sao Chúa lại đưa con đến đây. Nhưng con đặt trọn niềm tin vào Chúa. Xin hãy dạy con những gì Chúa muốn con học ở đây. Xin hãy biến con thành con người mà Chúa muốn con trở thành.”

Ngoài ra, hãy nhớ rằng khoái lạc, danh vọng và quyền lực chẳng qua chỉ là những hố đen của trải nghiệm con người. Bạn càng có chúng, bạn càng khao khát chúng. Hãy nhìn vào những gì đang diễn ra hiện nay với Vladimir Putin của Nga và Tập Cận Bình của Trung Quốc. Hai bạo chúa này sẽ không bao giờ ngừng giành giật thêm của cải, danh vọng và quyền lực cho đến khi chúng sụp đổ.

Giống như Chúa Giêsu, niềm an ủi biến đổi trong sự hoang vu của cuộc sống đối với chúng ta chính là Lời Chúa. Lời Chúa vẫn là phương tiện hữu hiệu nhất cho những ai tìm kiếm chân lý, lòng tốt và vẻ đẹp, cho những tâm hồn khao khát tự do và hòa bình, cho những người cách mạng của trái tim. Cả trời và đất sẽ qua đi, cùng với sự hoang vu và đau khổ của chúng ta. Nhưng Lời Chúa sẽ tồn tại mãi mãi.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Mar. 2, 2025

March 2, 2025

Dear Parishioners,

There are simple habits that we only realize their importance when we forget to do them. Waking up in the morning, cleaning up, eating a piece of cake or drinking a glass of milk, then rushing to get in the car to go to work, forgetting to look in the mirror. Sometimes peanut butter is stuck on your face, the rim of a glass of milk or orange juice stained your lips, but you still go to meet a client or customer, who wouldn’t blush when you realize it? Worse still, forgetting to zip up your zipper or leaving toilet paper hanging down your back while still being cheerful in public is truly shameful. Looking in the mirror is a very simple but very important thing. Forgetting to do it can lead to losing your job or at least losing customers.

We want to show the world that we are neat and polite people, so we have to look in the mirror not just once but many times a day. And we all know that neatness and politeness on the outside is not as important as maturity and prudence on the inside. But have we ever asked ourselves: what is the human mirror that helps us recognize what is sloppy and ugly inside?

Let me say right away that no one does not have a human mirror that helps them recognize their own shortcomings and bad habits. Each person has not just one but many such human mirrors. They are the people who live closest to them. The human mirror of the wife is the husband, and vice versa. Then the siblings and parents, relatives and colleagues also constantly show us what in us is an eyesore, a deviation, and not good in their eyes.

When we look in the mirror and recognize a blemish on our face, a mistake in our clothing, we are secretly happy because we have corrected it in time. But when a human mirror only shows a bad trait or weakness, we naturally object. Why? Is it because we only want to correct our external appearance, while disregarding our inner maturity?

Definitely not. There are many reasons why we silently thank the glass mirror but are annoyed with human mirrors. Jesus in today’s Gospel shows us a basic reason, “Why do you see the speck in your brother’s eye, but do not notice the log in your own eye?” We are annoyed with human mirrors because each of us is a mirror. We also see in the person who just pointed out to us some bad habits and many other imperfections. In our mind we say to ourselves, “You are not any better than me, why are you showing off?”

It is always easier to see the shortcomings of others than to recognize our own. Just observe the conflicts between couples and we will see. The wife always has a long list of her husband’s bad habits. Conversely, the husband also lists many ways his wife has hurt or embarrassed him. When you consider carefully, it is not certain whose list is longer.

However, the way the husband and wife handle their lists is often very different. The wife will communicate her list to an intermediary – a priest, nun or family counselor – in detail, and most importantly, will tell them her husband’s sins, not just once but repeatedly. The husband, on the other hand, will rarely dare to express all his grievances to his wife, but will only share them with someone he trusts – sometimes a priest, sometimes a mediator.

When couples come to me to express their family problems, I want an office that is like a police station when they investigate. One person stands outside behind a one-way glass wall, seeing and hearing the two people inside, but the person being investigated cannot see the person standing outside. I want the husband to hear the wife’s discontent, and the wife to hear the husband’s sadness. Listening to each other completely and thoroughly is always an important first step to reconciliation. This is the most difficult step.

Another sad reality is: everyone thinks that the other person must change for things to be better, without thinking about changing themselves. Everyone wants to change others, but they refuse to change themselves. As such, things will not improve but will get worse. The reason is simple: no one can change others, only themselves. Without accepting this truth, it is impossible to improve yourself and your family.

Ancient cultures and masters through the ages have sounded the same message, in many different forms. Know Yourself – To know others is good knowledge, to know oneself is wisdom – Cultivate yourself, regulate your family, govern your country, and bring peace to the world – Knowing yourself and others, and you will win every battle. Jesus said bluntly, “You hypocrite! First take the log out of your own eye, and then you will see clearly to take the speck out of your brother’s eye!”

Standing in front of a mirror, no one is crazy enough to object to the stains or wrinkled clothes that appear before them. Each of us needs to learn to humbly listen to human mirrors tell us about our shortcomings and weaknesses. Do not argue or object. But take the time to examine ourselves. When others point out our shortcomings, they are our teachers. If those weaknesses are true, thank that person, and ask God to give you patience and wisdom to correct them. If you find some untrue points, silently ignore them, without making excuses or explanations. If that human mirror is your husband or wife, ask them how they can best help you correct them.

What must never be forgotten is: a useful mirror not only shows the ugly and dirty things but also reveals the beauty and nobility of the person looking in the mirror. Human mirrors should show each other the good qualities, sacrifices, and nobility of the people they live with. A human mirror that only shows the bad and the ugly is just a useless mirror, no one wants to live near it. But a mirror that brightens the beauty of the person looking in the mirror is a divine mirror.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Có những thói quen đơn giản mà chúng ta chỉ ý thức được tầm quan trọng của chúng khi mình quên làm. Sáng dậy, làm vệ sinh, ăn miếng bánh hay uống ly sữa, rồi vội vã lên xe đi làm, quên soi gương. Có khi peanut butter dính trên mặt, vết miệng ly sữa hay ly nước cam dính trên mép, mà cứ hiên ngang đi gặp thân chủ hoặc khách hàng thì khi nhận ra ai mà không đỏ mặt? Tệ hơn nữa là quên kéo zipper lên hay để toillet paper dính lòng thòng sau lưng mà cứ hớn hở giữa công chúng thì quả là đáng hổ thẹn. Soi gương là việc hết sức đơn giản nhưng cũng rất quan trọng. Quên làm có thể dẫn đến mất việc hay ít nhất mất khách.

Chúng ta muốn chứng tỏ cho thiên hạ biết mình là con người gọn gàng lịch sự nên chúng ta phải soi gương không chỉ một lần mà nhiều lần trong ngày. Và chúng ta ai cũng biết là vẻ gọn gàng lịch sự bên ngoài chưa quan trọng bằng sự chín chắn trưởng thành bên trong. Nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi: đâu là tấm gương nhân bản giúp cho mình nhận ra những gì là lôi thôi lếch thếch và xấu xa bên trong?

Xin thưa ngay rằng không ai là không có tấm gương nhân bản giúp mình nhận ra những khuyết điểm tật xấu của mình. Mỗi người có không chỉ một mà nhiều tấm gương nhân bản ấy. Đó là những người sống gần gũi nhất với mình. Tấm gương nhân bản của vợ là chồng, của chồng là vợ. Rồi cả anh chị em và cha mẹ, họ hàng và đồng nghiệp cũng không ngừng chỉ cho chúng ta thấy những gì nơi chúng ta là chướng mắt, là lệch lạc, là không tốt trong đôi mắt họ.

Khi chúng ta soi gương và nhận ra một vết nhơ trên mặt, một sơ xuất trong trang phục, thì chúng ta mừng thầm vì kịp thời chỉnh sửa. Còn khi một tấm gương nhân bản chỉ cho thấy một tính xấu hay nhược điểm thì chúng ta tự nhiên phản đối. Tại sao? Có phải là chúng ta chỉ muốn chỉnh sửa dung mạo bên ngoài, mà coi thường sự chín chắn trưởng thành bên trong không?

Chắn chắn là không. Có nhiều lý do cho việc chúng ta thầm cám ơn cái gương bằng kiếng nhưng lại khó chịu với những chiếc gương con người. Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay chỉ cho chúng ta một lý do căn bản, “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” Chúng ta khó chịu với các tấm gương nhân bản là vì mỗi bản thân chúng ta cũng là một chiếc gương. Chúng ta cũng thấy nơi kẻ vừa chỉ cho mình một số tật xấu không ít những khiếm khuyết bất toàn khác. Trong đầu chúng ta tự nhủ, “Ngươi đâu có hay ho gì hơn ta mà bày đặt?”

Thấy khuyết điểm của kẻ khác bao giờ cũng dễ gấp bội việc nhận ra khuyết điểm của mình. Cứ quan sát sự lủng củng giữa các cặp vợ chồng sẽ thấy. Người vợ thì lúc nào cũng có sẵn một danh sách tràng giang đại hải những thói hư tật xấu của chồng. Ngược lại, ông chồng thì cũng liệt kê không ít những gì vợ làm mình tổn thương hay mất mặt. Xét cho kỹ thì chưa chắc danh sách của ai dài hơn ai.

Tuy nhiên, việc sử lý danh sách của hai vợ chồng thường rất khác nhau. Người vợ thì phổ biến danh sách của mình cho một người trung gian – cha, sơ hay cố vấn gia đình – một cách rành mạch chi tiết, và nhất là kể tội chồng mình cho chính ông ta biết, không chỉ một lần mà lập đi lập lại nhiều lần. Còn người chồng thì ít khi dám bày tỏ mọi sự bất bình của mình với vợ, mà chỉ chia sẻ được với ai mình thật tin tưởng – có khi là một tu sĩ, có khi là người trung gian.

Khi có những cặp vợ chồng đến bày tỏ với tôi về những rạn nứt trong gia đình của họ, tôi muốn có một văn phòng giống như sở cảnh sát khi họ điều tra. Một người đứng ở ngoài sau bức tường kiếng một chiều, nhìn và nghe được hai người bên trong, nhưng người bị điều tra không thấy được người đứng bên ngoài. Tôi muốn người chồng nghe được tâm trạng bất bình của vợ, và người vợ nghe được tâm sự u uẩn của chồng. Lắng nghe lẫn nhau một cách trọn vẹn và thấu đáo bao giờ cũng là một bước khởi đầu quan trọng cho việc giải hòa. Đây là bước khó nhất.

Một thực tế đáng buồn nữa là: ai cũng cho rằng người kia phải thay đổi thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn, mà không hề nghĩ đến việc thay đổi chính mình. Ai cũng muốn sửa đổi người khác, còn mình thì không chịu sửa đổi. Cứ thế, mọi chuyện sẽ không cải tiến mà càng ngày càng tệ hại hơn. Lý do đơn giản là: không ai có thể thay đổi được người khác, mà chỉ có thể thay đổi chính mình. Không chấp nhận chân lý ấy thì không thể cải tiến chính mình cũng như gia đình mình được.

Các nền văn hóa cổ kính, các bậc tôn sư qua bao thế hệ, đều nhắc nhở cùng một thông điệp, dưới nhiều dạng khác nhau. Hãy biết chính mình Know Yourself – Tri nhân giả trí, tự tri giả minh – Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ – Biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng. Chúa Giêsu thì nói thẳng, “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em!”

Đứng trước tấm gương bằng kiếng, không ai điên khùng phản đối những vết nhơ hay bộ quần áo nhăn nhúm hiện ra trước mặt. Mỗi người chúng ta cần học được tâm tình khiêm nhường lắng nghe những tấm gương nhân bản kể ra những bất toàn yếu đuối của mình. Không biện bác hay phản đối. Nhưng dành ra thời giờ để kiểm điểm chính mình. Khi ai chỉ ra cái dở của ta thì là thầy ta. Nếu những bất toàn yếu đuối đó là sự thật, cám ơn người ấy, và xin Chúa cho mình sự kiên nhẫn và khôn ngoan để sửa đổi. Nếu tìm ra một vài điểm không thật thì âm thầm bỏ qua, không bào chữa giải thích. Nếu tấm gương nhân bản ấy là chồng hay vợ mình, hãy hỏi họ có thể giúp mình sửa đổi cách nào tốt nhất.

Điều không bao giờ được quên là: một chiếc gương hữu dụng không chỉ cho thấy những gì lem nhem xấu xí, mà còn làm lộ ra nét đẹp, sự thanh cao của kẻ soi gương. Những tấm gương nhân bản càng nên tỏ cho nhau thấy những tính tốt, sự hy sinh, và vẻ cao quý của những người đang chung sống với mình. Một tấm gương nhân bản chỉ trưng bày cái xấu thì chỉ là tấm gương vô dụng, không ai muốn sống gần. Còn tấm gương làm sáng lên vẻ đẹp của kẻ soi gương là một tấm gương thần.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Feb. 23, 2025

Feb. 23, 2025

Dear Parishioners,

The theme of today’s Word of God encapsulates a principle of life that is both general and specific. That principle is summarized in Jesus’ words: “Give, and it will be given to you. Good measure, pressed down, shaken together, running over, will be put into your lap.” The Jews had a lap that was like the hem of their robes, and when they fastened the lapels to their belts, they had a large bag that could hold a lot. Jesus made it clear that whoever gives a little will receive a lot in return. I call this practice the principle of divine grace.

In Buddhism, there is the law of cause and effect: what you sow, so shall you reap. The law of cause and effect emphasizes human justice: those who do good will reap good fruit; those who do evil will receive bad consequences. Everyone knows about the law of cause and effect, but we are still indignant when we see the deceitful and dishonest people everywhere, especially the Communist leaders who suck the blood of the poor and oppress religions while collecting millions for their families to live lavishly. But please rest assured. As ordinary people, we still know what is fair and just, so God, who is absolutely just and upright, will certainly carry out His justice. On the one hand, we still do our best to fight for justice. On the other hand, we should not be upset because we have not seen the immediate results. God knows what He does, and He invites us to trust in His providence.

The principle of divine grace in the Gospel places less emphasis on the consequences of evil, but on the fruits of goodness. Whoever does one good deed will receive thirty, sixty, or even a hundred folds, as we heard in the parable of the sower. The reason for this generosity is that the one who responds is not a mortal but God himself.

A beautiful young woman, dressed elegantly and nobly, entered the office of a psychologist. As soon as she sat down, she quickly said to the secretary, “I apologize for not having an appointment. I went shopping nearby and saw a psychological counseling office so I wanted to go in. I wonder if the doctor has time for me.” The secretary replied, “The doctor is talking to a client. Someone has already made an appointment in the next two hours. You can continue shopping, then come back in about three hours, the doctor will have time for you.”

She looked around, disappointed, “I can’t wait that long. Actually, I don’t have anything big to do. My life is very full. My husband loves me very much. Our children study hard, there is nothing to worry about. But why do I feel so empty and bored? I keep thinking about it but I don’t know why. My husband believes I’m just thinking too much.”

The secretary replied calmly, “I’m not as lucky as you. Five years ago, my mother was bedridden and I was the only child. I wasn’t married at the time. As you know, the salary for a secretary’s job is low and the work is monotonous, every day is the same.”

The customer asked, “Maybe I’m luckier than you in some ways. But I see your face is full of peace; you must have many secret joys?”

The secretary replied, “When my mother first fell ill, there were times when I felt so tired that I wanted to give up. Many times I couldn’t bear it anymore, and I thought about putting her in a nursing home, and then taking medicine to commit suicide. Then one afternoon, when I came home, I saw a small cat standing trembling by the door. It had an injured leg. Without thinking, I carried it inside, fed it, and bandaged its leg. It rubbed its head against my leg as if to thank me. I made for it a place in the corner of the room.

“From then on, every day I knew that the cat was always waiting for me to come home to take care of it and play with it. Suddenly the burden on my shoulders became lighter. I eagerly walked home, taking care of both my mother and the cat. It clung to me while I was taking care of my mother. And when I was taking care of it, I had a clear feeling that it cherished and loved my every gesture. Sometimes its eyes turned to my mother, meowing as if to tell me something. “I kept wondering about the cat’s eyes. Until one day, I suddenly discovered the meaning of those eyes. If the cat knew how to appreciate my love and care, then my mother must have appreciated my love and care even more, even though she could not express it. From then on, I no longer felt that taking care of my mother was a burden. The cat taught me that lesson. Now my mother is gone, and I have a family, but I still spend some time caring for someone.”

The stranger was silent, her face bowed for a long time. When she looked up, her eyes were slightly red. She dabbed her eyes with a handkerchief, thanking the secretary, “You are the one I really need to see, not the doctor. Now I understand the reason for the emptiness of my soul. I have so much but have not given anything away except for my responsibility to my husband and children, who have also received so much. I do not know how to give love, so I lack love and my heart is empty. I sincerely thank you, your mother, and the cat.”

A desperate person, thinking that she no longer has the strength to bear the burden of life, in a moment of compassion, she loved and cared for an animal, and from then on everything changed completely. It is when you give that you receive, and you are repaid many times over.

The best way to cope with boredom, to ease depression, to fill the void in the soul, to make the heart happy again, to make life meaningful, is to give love, care, and affection to someone who is in need, lonely, or disappointed. That little bit of time, money, or care will blossom into fruits of peace, joy, and love of life. “Give, and it will be given to you. A good measure, pressed down, shaken together, running over, will be poured into your lap.” Those who practice this principle of divine grace will not only be filled with peace in their lives, but they will also gradually feel the face of God always near them. Then, even those who come close to them will feel the joy of the Kingdom of Heaven.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Chủ đề của Lời Chúa hôm nay gói ghém một nguyên tắc sống vừa bao quát vừa cụ thể. Nguyên tắc đó được tóm gọn trong câu nói của Chúa Giêsu: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em.” Người Do-thái có cái vạt áo giống như tà áo dài của mình, và khi họ cài vạt áo đó vào đai thắt lưng, họ sẽ có một cái túi lớn đựng được rất nhiều. Chúa Giêsu nói rõ rằng ai cho đi một, thì sẽ nhận lại gấp bội. Tôi gọi nguyên tắc này là nguyên lý thiên ân.

Bên Phật giáo có luật nhân quả: gieo giống nào thì gặt quả nấy. Luật nhân quả nhấn mạnh vào sự công bằng nhân bản: ai làm tốt sẽ thu hoa trái tốt; ai làm xấu sẽ lãnh nhận hậu quả tai hại. Ai cũng biết về luật nhân quả, nhưng chúng ta vẫn bức xức khi thấy kẻ gian gối lừa lọc cứ phây phây ra đó, nhất là đám lãnh đạo Cộng Sản hút máu mủ dân nghèo và đàn áp các tôn giáo thì thu góp bạc triệu cho gia đình chúng ăn chơi phè phỡn. Quý ông bà anh chị em cứ yên tâm. Chúng ta là người bình thường mà còn biết đâu là công bằng chính nghĩa, thì Thiên Chúa công minh chính trực tuyệt đối chắc chắn sẽ thực thi công lý của Người. Một mặt, chúng ta vẫn hết sức đấu tranh cho công lý. Mặt khác, chúng ta không nên bực mình vì chưa thấy kết quả nhãn tiền. Chúa biết việc Chúa làm, và Chúa mời gọi chúng ta tín thác vào sự quan phòng của Người.

Nguyên lý thiên ân của Phúc Âm ít nhấn mạnh vào hậu quả của sự xấu, mà tập trung vào hoa trái của sự thiện hảo. Ai làm điều tốt một, sẽ nhận lại hoa trái ba mươi, sáu mươi, có khi một trăm, như chúng ta nghe trong dụ ngôn người gieo giống. Lý do của sự bội hậu này là vì người đáp trả không phải là phàm nhân mà là chính Thiên Chúa.

Có một phụ nữ trẻ đẹp, ăn mặc rất trang nhã quý phái, bước vào văn phòng của một chuyên gia tâm lý. Vừa ngồi xuống ghế bà đã mau mắn nói với cô thư ký, “Tôi xin lỗi đã không hẹn trước. Tôi đi mua sắm gần đây, thấy có văn phòng cố vấn tâm lý nên muốn vào. Không biết bác sĩ có giờ cho tôi không.” Cô thư ký trả lời, “Bác sĩ đang nói chuyện với một thân chủ. Hai giờ kế tiếp cũng đã có người xin hẹn. Bà có thể đi mua sắm tiếp, rồi khoảng ba tiếng nữa trở lại, bác sĩ sẽ có giờ cho bà.”

Bà ta nhìn quanh có vẻ thất vọng, “Tôi không chờ lâu được như vậy. Thực ra tôi cũng chẳng có chuyện gì to tát. Cuộc sống của tôi thật đầy đủ. Chồng tôi thương tôi thật nhiều. Con cái chúng tôi cũng học hành chăm chỉ, chẳng có gì đáng ngại. Nhưng sao tôi thấy tâm hồn mình thật trống rỗng, nhàm chán. Suy nghĩ hoài mà cũng chẳng biết tại sao. Chồng tôi thì cứ cho rằng tôi suy nghĩ vẩn vơ đấy thôi.”

Cô thư ký ôn tồn trả lời, “Tôi thì không được may mắn như bà. Cách đây năm năm, mẹ tôi nằm liệt giường mà tôi là đứa con duy nhất. Lúc đó tôi chưa lập gia đình. Công việc thư ký thì bà biết đó, lương chẳng bao nhiêu mà việc thì đơn điệu, ngày nào cũng như ngày ấy.”

Bà khách hỏi tới, “Có lẽ tôi may mắn hơn cô một số điều. Nhưng tôi thấy mặt cô đầy an bình; hẳn cô có nhiều niềm vui kín đáo lắm?”

Cô thư ký đáp, “Thời gian đầu khi mẹ tôi ngã bệnh, có lúc tôi cảm thấy quá mệt mỏi muốn bỏ cuộc. Nhiều khi chịu không nổi, tôi đã nghĩ đến việc bỏ mẹ vào nursing home, rồi uống thuốc tự vẫn. Rồi một buổi chiều kia, về đến nhà, tôi thấy có một con mèo nhỏ đứng run rẩy bên cạnh cửa ra vào. Nó bị thương một chân. Tôi chẳng suy nghĩ gì cả, bế nó vào trong nhà, cho nó ăn, và băng bó cái chân nó. Nó rụi đầu vào chân tôi như cám ơn. Tôi làm cho nó một chỗ nằm ở góc phòng.

“Từ đó trở đi, mỗi ngày tôi biết con mèo lúc nào cũng mong chờ tôi về nhà để săn sóc và chơi với nó. Tự nhiên gánh nặng trên vai tôi nhẹ hẳn. Tôi hăng hái bước về nhà, vừa chăm sóc cho mẹ vừa lo cho chú mèo. Nó cứ quấn lấy tôi trong lúc tôi săn sóc mẹ. Rồi lúc tôi lo cho nó, tôi có cảm tưởng rõ ràng rằng nó nâng niu quý mến từng cử chỉ của tôi. Có lúc mắt nó hướng về mẹ tôi, kêu “meo meo” như nhắn nhủ điều gì.

“Tôi cứ thắc mắc mãi về ánh mắt của chú mèo. Cho tới ngày kia, tôi chợt khám phá ra ý nghĩa của ánh mắt ấy. Nếu chú mèo biết trân quý sự yêu thương chăm sóc của tôi, thì mẹ tôi hẳn còn trân quý gấp bội sự yêu thương săn sóc của tôi, dù mẹ không diễn tả được. Từ đó trở đi, tôi không còn cảm thấy việc lo cho mẹ là gánh nặng nữa. Chú mèo đã dạy cho tôi bài học ấy. Bây giờ mẹ tôi không còn, và tôi đã lập gia đình, nhưng tôi vẫn dành ra một số thời giờ để quan tâm đến một ai đó.”

Bà khách lạ lặng yên không nói, mặt bà cúi xuống khá lâu. Lúc ngẩng lên, đôi mắt bà hơi đỏ. Bà lấy khăn chấm mắt, cám ơn cô thư ký, “Cô mới thực sự là người tôi cần gặp chứ không phải ông bác sĩ. Bây giờ thì tôi hiểu lý do của sự trống rỗng của tâm hồn. Tôi có quá nhiều mà chẳng cho đi chút nào ngoài trách nhiệm đối với chồng con, những người cũng đã được nhận rất nhiều. Tôi không biết cho đi tình yêu nên tôi thiếu thốn tình yêu và tim tôi trống vắng. Tôi chân thành cám ơn cô, mẹ cô, và cả chú mèo nữa.”

Một người tuyệt vọng, tưởng rằng không còn đủ sức vác gánh nặng cuộc sống. Thế rồi trong một phút từ tâm đã yêu thương săn sóc một con vật, và từ đó mọi chuyện thay đổi hẳn. Chính khi cho đi là khi được nhận lãnh, đáp đền gấp bội.

Cách tốt nhất để đương đầu với nhàm chán, để xoa dịu đi cơn trầm cảm, để lấp đầy trống vắng trong hồn, để con tim sẽ vui trở lại, để cuộc sống đong đầy ý nghĩa, là cho đi tình thương, sự quan tâm, lòng ưu ái cho một ai đó đang thiếu thốn, đang cô đơn, đang thất vọng. Chút thời gian, tiền bạc, hay lòng quan tâm ấy sẽ nổ rợ hoa trái của bình an, niềm vui, và lòng yêu đời.

“Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo cho anh em.” Ai thực thi nguyên lý thiên ân ấy, thì cuộc sống họ không chỉ tràn ngập an bình, mà họ còn từ từ cảm nhận khuôn mặt của Thiên Chúa luôn luôn cận kề bên cạnh. Khi ấy, cả những ai đến gần họ cũng cảm nhận niềm vui Nước Trời.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ