Fr. Duc’s Message of the Week Mar. 30, 2025

Mar. 30, 2025

Dear Parishioners,

The most famous sculptor in the world is Micheangelo. Anyone who has been to Rome will see the statues of the Sorrowful Virgin Mary, Moses, and Saint Peter as masterpieces that cannot be missed. The bronze feet of Saint Peter have been touched by people for centuries, so much so that their feet are worn out. These statues are so lifelike that everyone admires and marvels at the unique genius of Micheangelo.

The more skillful and sophisticated a sculptor is, the more vivid and graceful the statue will be. Not only is the image vivid, but the spiritual essence of the sculpted character also radiates and touches the viewer. A statue starts out as a shapeless block of stone taken from the ground. And then with a rich imagination, skillful hands, and endless patience, a living person is formed. The wonder of a statue reflects the genius of the sculptor. Micheangelo’s creations are still praised and studied until the end of time.

Now let us look at our own statue in the mirror. We look at it countless times a day. What do we see? Is it lively and graceful or dull and lifeless? What kind of spirit is emanating from it? Looking at it, what do we think about the talent of the sculptor who created it?

Of all God’s creations, human is the most outstanding because we are the apex of creation. So why, when we look at ourselves in the mirror, do we not see vitality or ethereal essence? Has God’s talent been lost over time? Or has someone secretly destroyed and defiled that statue?

Each person is an immortal work of God and His talent is not lost over time. But creation is a continuous process from the beginning to the end of the world, not a one-time event. God did not create the universe and then let it go on its own, but He never stops, both preserving it to exist and shaping it according to His plan of salvation.

That means that the statue of each of us is still in the process of being molded and cultivated by God’s hands, until we complete our earthly journey. God wants to create each of us into a masterpiece in His image. So why do so few people look at themselves in the mirror and admire or feel their own elegant essence?

Unlike Michelangelo’s statues, which are inanimate objects and completely passive in the process of creation, God gives each of us the opportunity and ability to collaborate in His creative work. Human is the supreme creature because God has given us the freedom and the creative ability to collaborate with God.

When we freely choose to use our abilities to cooperate with God’s creative work, our statue is the work that God wants to create. When we refuse to cooperate with God, we make a statue of ourselves, refusing to let God’s hand continue to mold us. And the result of that refusal is that the statue we see in the mirror is the one we have created for ourselves.

At the same time, there are so many influences around us, especially the cunning hand of the devil, who always wants to intervene and mold us not according to the image of God but according to the image of the world and the devil. The more we let those bad influences corrupt us, the more lifeless and sad the statue we see in the mirror becomes.

That is the warning of Lent, the season of conversion, returning to God and collaborating with His wonderful hands to complete our statue according to His will. Without stopping, awakening, and returning to our Creator, the statue of our life will become increasingly ugly and frightening.

In today’s parable, the younger brother realized his foolishness and returned to his father. The younger brother created his own life, regardless of morality, and as a result became a hungry pig herder. When he saw everything reduced to black mud, the younger brother recognized the love of his old father and returned. The elder brother diligently fulfilled his duties but did not realize that everything that belonged to his father was also his own, so when he saw his father holding a party to celebrate his younger brother’s return, he felt that he was not loved by his father as much as his worthless younger brother. He was angry with his father for not understanding him, and hated his younger brother because he thought he deserved punishment rather than forgiveness. The elder brother’s statue was also the statue of the Pharisees and scribes. The younger brother’s statue was the statue of the repentant tax collectors and prostitutes.

Returning to our Creator is a chance to see the wonderful work that God wants us to become. If we keep pursuing our personal ambitions and passions, one day we will turn from a flashy and handsome persons into hungry pig herders. And those who, no matter how sad and pitiful their statue in the mirror is, still know how to return to the perfect Sculptor, their statue will become more and more vivid, graceful, and their quintessence will shine more and more, overwhelming the beholder.

Every day that we still breathe, we have the opportunity to carve the image of a person full of vitality and hidden spiritual essence. God’s creative hands are still waiting for our collaborative hands to join together to create a masterpiece that is gradually more perfect each day.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Điêu khắc gia nổi tiếng nhất thế giới là Micheangelo. Ai đã từng tới Rôma thì các bức tượng Đức Mẹ Sầu Bi, ông Môsê, và thánh Phêrô là các kiệt tác không thể bỏ qua. Riêng cái chân bằng đồng của thánh Phêrô thì đã bị con người rờ vào qua bao thế kỷ nên mòn cả bàn chân. Các bức tượng này sinh động như người thật làm ai cũng ngưỡng mộ trầm trồ cái thiên tài có một không hai của Micheangelo.

Một điêu khắc gia càng tài tình tinh xảo thì bức tượng càng sống động thanh thoát. Không chỉ hình ảnh sống động mà tinh hoa thần khí của nhân vật được tạc tượng đó còn toát ra chạm đến kẻ chiêm ngắm. Một bức tượng bắt đầu chỉ là một khối đá không hình dạng lấy lên từ lòng đất. Và rồi với một óc tưởng tượng phong phú, đôi tay tinh xảo, và một sự kiên nhẫn vô bờ, một con người sống động thành hình. Cái tuyệt vời của một bức tượng phản ánh thiên tài của điêu khắc gia. Sự sáng tạo của Micheangelo còn được ca ngợi và nghiên cứu cho tới tận thế.

Bây giờ chúng ta chiêm ngắm bức tượng của chính mình trong gương. Mỗi ngày chúng ta nhìn bức tượng ấy không biết bao nhiêu lần. Chúng ta thấy bức tượng đó ra sao? Sống động thanh thoát hay ảm đạm thiếu sinh khí? Tinh hoa thần khí gì toát ra từ bức tượng ấy? Nhìn bức tượng ấy chúng ta nghĩ gì về tài năng của người điêu khắc đã sáng tạo nên nó?

Trong mọi tạo vật của Thiên Chúa con người đứng hàng đầu vì là tác phẩm tột đỉnh. Thế thì tại sao khi nhìn mình trong gương, chúng ta không thấy sinh khí tràn trề hay tinh hoa thoát tục? Phải chăng tài nghệ của Thiên Chúa đã mai một theo thời gian? Hay có kẻ nào đó đã âm thầm phá hoại và làm nhơ nhuốc bức tượng ấy?

Mỗi người là một tác phẩm bất hủ của Thiên Chúa và tài nghệ của Người không hề mai một theo thời gian. Nhưng sự sáng tạo là một tiến trình liên tục từ nguyên thủy cho tới tận thế, chứ không phải là chỉ xảy ra một lần rồi hoàn tất. Thiên Chúa không tạo dựng vũ trụ rồi để mặc nó tự luân chuyển mà Người không bao giờ ngừng nghỉ vừa gìn giữ để nó tồn tại vừa uốn nắn nó theo kế hoạch cứu độ của Người.

Điều đó có nghĩa là bức tượng bản thân của mỗi người chúng ta vẫn con đang trong quá trình được nhào nặn và bồi đắp bởi bàn tay Thiên Chúa, cho tới lúc chúng ta hoàn tất hành trình dương thế. Thiên Chúa muốn tạo dựng từng người chúng ta thành một tuyệt tác theo hình ảnh của Người. Thế thì tại sao ít ai nhìn mình trong gương và trầm trồ ngưỡng mộ hay cảm nhận cái tinh hoa thanh thoát của mình?

Khác với các bức tượng của Micheangelo là các vật vô tri vô giác và hoàn toàn thụ động trong quá trình sáng tạo, Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta cơ hội và khả năng cộng tác vào công trình sáng tạo của Người. Con người là tạo vật tối cao vì con người được Thiên Chúa ban cho sự tự do và khả năng sáng tạo để cộng tác với Thiên Chúa.

Khi chúng ta tự do chọn lựa dùng khả năng của mình cộng tác với công trình sáng tạo của Thiên Chúa thì bức tượng của mình là tác phẩm mà Thiên Chúa muốn tạo dựng. Khi chúng ta từ chối cộng tác với Thiên Chúa thì chúng ta tự tạc bức tượng của mình, không thèm để bày tay Thiên Chúa tiếp tục nhào nặn nên mình. Và kết quả của sự từ chối ấy là bức tượng chúng ta nhìn thấy trong gương là do mình tự tạo cho mình.

Cùng một lúc có biết bao ảnh hưởng chung quanh, nhất là bàn tay xảo quyệt của ma quỷ, lúc nào cũng muốn xen vào nhào nặn uốn nắn chúng ta không theo hình ảnh của Thiên Chúa mà theo hình ảnh thế gian và ma quỷ. Càng để cho những ảnh hưởng xấu ấy làm tha hóa mình, bức tượng chúng ta thấy trong gương càng thiếu sinh khí và càng đáng buồn.

Đó là lời cảnh tỉnh của Mùa Chay, mùa của hoán đổi quay về với Thiên Chúa và cộng tác với đôi tay tuyệt diệu của người để hoàn thành bức tượng của mình theo thánh ý Người. Không dừng lại, cảnh tỉnh, và quay về với Đấng Tạo Dựng mình, bức tượng cuộc đời chúng ta sẽ càng ngày càng xấu xa đáng sợ.

Trong bài dụ ngôn hôm nay, người em đã nhận ra cái ngu xuẩn của mình và quay về với cha. Người em đã tự tạo cuộc sống theo ý mình, bất chấp luân thường đạo lý, và kết quả là làm kẻ chăn heo đói lả. Khi thấy mọi sự xuống tận bùn đen, người em còn nhận ra tình thương của cha già mà quay trở về. Còn người anh thì chăm chỉ chu toàn bổn phận nhưng lại không hề nhận ra tất cả những gì của cha mình cũng là của mình, nên khi thấy cha mở tiệc mừng đứa em trở về, anh ta cảm thấy mình không được cha yêu thương bằng thằng em không ra gì. Giận cha vì không hiểu cha, ghét em vì cho rằng em đáng bị trừng phạt hơn là tha thứ. Bức tượng của người anh cũng là bức tượng của mấy ông Pha-ri-sêu và kinh sư luật sĩ. Còn bức tượng của người em là bức tượng của mấy người thu thuế và gái điếm ăn năn trở về.

Quay trở về với Đấng Tạo Dựng mình là còn có cơ hội nhìn thấy tác phẩm tuyệt vời Thiên Chúa muốn mình trở thành. Còn cứ lao đầu theo đuổi tìm kiếm những tham vọng đam mê cá nhân thì từ một kẻ hào nhoáng bảnh bao sẽ có ngày thành tên chăn heo đói lả. Còn những ai dù thấy bức tượng mình trong gương đáng buồn đáng tủi tới bao nhiêu mà còn biết quay về với Đấng Điêu Khắc Gia toàn mỹ thì bức tượng của mình càng ngày càng sinh động thanh thoát và tinh hoa càng tỏa sáng chinh phục kẻ chiêm ngưỡng.

Từng ngày chúng ta còn thở thì còn có cơ hội khắc nên hình ảnh một con người đầy sức sống và ẩn tàng tinh hoa thần khí. Đôi tay sáng tạo của Thiên Chúa vẫn đang chờ bàn tay cộng tác của chúng ta cùng hòa hợp đề rồi một kiệt tác từ từ mỗi ngày thêm hoàn mỹ.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Weekly Message – Mar. 23, 2025

March 23, 2025

Dear Parishioners,

In our Catholic tradition, there are two categories of sins: sins of commission and sins of omission. Sins of commission are those we are commanded by God not to do and we did, like the ten commandments. Sins of omission are those commanded by God to do but we don’t do them, like, do good things to others what you want to be done to you.

Unfortunately, in confession most people focus on the sins of commission, things that we should not do but did. And most people never consider the sins of omission, things we should do but didn’t. The parable of the fig tree addresses that category of sins of omission.

Let’s pose a couple of questions. First, you pay arms and legs for your children’s tuition, but they don’t want to study hard, instead just fooling around in school. How would you feel? Second, you are lucky enough to have very successful children, who make tons of money. And when you invite them to your 25th wedding anniversary, they come to the party, but they bring no gifts whatsoever. How would you feel?

The greatest sin of omission is to do nothing with all that God has given to you. A fig tree is supposed to produce fruits after three years of planting. When the owner comes to claim his fruits, there is none.

Remember the story of Lazarus and the rich man? Lying at the door of the rich man, Lazarus longed for the food crumbs falling from the banquet table of the rich man. But he gets nothing. Consequences: The rich man lies in hell, and Lazarus in Abraham’s bosom. The story never mentions anything wrong that the rich has done, only the good thing that he fails to do. Doing nothing for a person in dire need has damned the rich man forever. That is his greatest sin.

Remember also the parable of the master and his three servants? Before the master leaves home on a trip, he gives one servant five talents, another two talents, and another one talent. One talent is equivalent to one thousand gold coins. When the master returns, he greatly rewards the first two servants who have made profits from what they were given. But the third servant has made nothing from what he was given. Listen to what the master tells the third servant, “As for this useless servant, throw him into the darkness outside, where there will be wailing and grinding of teeth.” Doing nothing with all that God has given us is the greatest sin of omission.

The good news for us today is what the owner of the barren fig tree does: he gives it a second chance. Every one of us has been given so much by God: life, health, education, opportunity, jobs, family, and friends; also, faith, hope, and love. What have we done with them? Keeping them for ourselves only amounts to doing nothing for others. The parable of the fig tree is a stark warning for us. We are living on our second chance. There will be no third chance.

So, we must make the best use of our second chance now, both when we come to confession and in our daily living. We must confess both the sins of commission and the sins of omission in order to have a fruitful confession and to show genuine repentance. In our daily living, we must constantly ask ourselves: How have I been using all the gifts that God has given me?

The opportunities for using our time, talents, and treasure for God’s greater glory and for the wellbeing of our brothers and sisters are infinite. The poor have been crying out to God. Our diocese is inviting us through the ADA. Our parish needs financial support and volunteers in ministries.

Giving to God ten percent of what we have received is not only the best investment in this life, but also the most productive investment in the life after. In human accounting, four-fold profit is the best scenario possible. But in the divine accounting, one seed can produce a thirty-, sixty-, and even a hundred-fold.

Let’s live our second chance the best way possible.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Trong truyền thống Công giáo của chúng ta, có hai loại tội: tội đã phạm và tội thiếu sót. Tội đã phạm là những tội mà Chúa truyền cho chúng ta không được làm và chúng ta đã làm, giống như mười điều răn. Tội thiếu sót là những tội mà Chúa truyền cho chúng ta phải làm nhưng chúng ta không làm, thí dụ, làm những điều tốt cho người khác những điều chúng ta muốn người khác làm cho mình.

Thật không may, khi đi xưng tội, hầu hết mọi người tập trung vào tội đã phạm, những điều chúng ta không nên làm nhưng đã làm. Và hầu hết mọi người không bao giờ xem xét đến tội thiếu sót, những điều chúng ta nên làm nhưng đã không làm. Dụ ngôn về cây sung đề cập đến loại tội thiếu sót đó.

Hãy đặt một vài câu hỏi. Đầu tiên, cha mẹ phải trả tiền học phí cao cho con cái, nhưng chúng không muốn học mà chỉ muốn chơi bời ở trường. Cha mẹ sẽ cảm thấy thế nào? Thứ hai, cha mẹ may mắn để có những đứa con rất thành đạt, kiếm được rất nhiều tiền. Và khi họ mời con cái đến dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày cưới, chúng đến dự tiệc, nhưng chúng không mang theo bất kỳ món quà nào. Họ sẽ cảm thấy thế nào?

Tội thiếu sót lớn nhất là không làm gì với tất cả những gì Chúa đã ban cho mình. Một cây vả lẽ ra phải ra quả sau ba năm trồng. Khi chủ đến tìm quả, không có quả nào cả.

Chúng ta còn nhớ câu chuyện về Ladarô và người giàu không? Nằm ở cửa nhà người giàu, Ladarô khao khát những mẩu thức ăn rơi xuống từ bàn tiệc của người giàu. Nhưng anh ta chẳng nhận được gì cả. Hậu quả: Người giàu nằm dưới địa ngục, còn Ladarô nằm trong lòng Abraham. Câu chuyện không bao giờ đề cập đến bất cứ điều gì sai trái mà người giàu đã làm, chỉ đề cập đến điều tốt mà anh ta không làm. Việc không làm gì cho một người đang đói lả đã khiến người giàu phải chịu án phạt đời đời. Đó là tội lỗi lớn nhất của anh ta.

Chúng ta hẳn còn nhớ ngụ ngôn về người chủ và ba người đầy tớ không? Trước khi rời nhà đi công tác, ông đưa cho một người đầy tớ năm nén vàng, một người khác hai nén và một người khác một nén. Một nén tương đương với một nghìn đồng vàng. Khi người chủ trở về, ông thưởng rất hậu cho hai người đầu tiên đã kiếm lời từ những gì họ được giao. Nhưng người đầy tớ thứ ba chẳng làm gì với những gì mình được ban cho. Hãy nghe lời người chủ nói với người đầy tớ thứ ba: “Còn tên đầy tớ vô dụng này, hãy quăng nó ra ngoài tối tăm, nơi sẽ có tiếng than khóc và nghiến răng.” Không làm gì với tất cả những gì Chúa đã ban cho chúng ta là tội thiếu sót lớn nhất.

Tin mừng cho chúng ta ngày nay là những gì người chủ của cây vả cằn cỗi đã làm: ông cho nó một cơ hội thứ hai. Mỗi người trong chúng ta đều được Chúa ban cho rất nhiều: cuộc sống, sức khỏe, giáo dục, cơ hội, công việc, gia đình và bạn bè; cũng như đức tin, đức cậy và đức mến. Chúng ta đã làm gì với chúng? Giữ chúng cho riêng mình có nghĩa là không làm gì cho người khác. Dụ ngôn về cây vả là một lời cảnh báo nghiêm khắc. Chúng ta đang sống trong cơ hội còn lại của mình. Sẽ không có cơ hội thứ ba.

Vì vậy, chúng ta phải tận dụng tốt nhất cơ hội còn lại của mình ngay bây giờ, khi chúng ta xưng tội cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta phải xưng tội cả tội đã phạm và tội thiếu sót để có một lần xưng tội hiệu quả và thể hiện sự ăn năn thực sự. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải liên tục tự hỏi: Tôi đã sử dụng tất cả những món quà mà Chúa ban cho mình như thế nào?

Có vô số cơ hội để sử dụng thời gian, tài năng và của cải của chúng ta cho vinh quang lớn hơn của Chúa và cho hạnh phúc của anh chị em chúng ta. Người nghèo đã kêu cầu Chúa. Giáo phận của chúng ta đang mời gọi chúng ta thông qua ADA. Giáo xứ của chúng ta cần hỗ trợ tài chính và tình nguyện viên trong các mục vụ.

Dâng cho Chúa mười phần trăm những gì chúng ta đã nhận được không chỉ là khoản đầu tư tốt nhất trong cuộc sống này mà còn là khoản đầu tư hiệu quả nhất cho cuộc sống sau này. Trong kế toán của con người, lợi nhuận gấp bốn lần là kịch bản tốt nhất có thể. Nhưng trong kế toán của Chúa, một hạt giống có thể tạo ra gấp ba mươi, sáu mươi và thậm chí là một trăm lần.

Hãy sống cơ hội còn lại của chúng ta cách nào tốt nhất.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Mar. 16, 2025

March 16, 2025

Dear Parishioners,

The Transfiguration event in today’s Gospel occurred just before Jesus entered Jerusalem, where he would suffer and die. Therefore, to strengthen the apostles in their journey of suffering, Jesus revealed the hidden glory of his Messiahship. The apostles, and especially each of us, must never forget that Jesus is both human and divine.

The divine and the human natures were always present and active in Jesus’ earthly life. When we forget either of these two natures, we will have a short-sighted view or misjudge an incident or action of Jesus. The human nature of Jesus reminds us that there is no experience or suffering that Jesus does not understand and sympathize with. His divinity invites us to trust that no matter how difficult or complex the situation, God is still actively carrying out His plan of salvation. There are miracles or events that are beyond human ability and understanding, but are still completely in the hands of God’s, and we must trust and cooperate.

Besides, when the Bible reveals that humans are created in the image of God, the Bible also affirms that: each of us, in addition to our human nature, also shares a part of God’s divinity. The divine dimension in us is both our quintessential character and the thing we forget most often. Unaware of our divinity, we let our humanity dictate our thought, word, and action. And instead of becoming better and holier, we gradually sink into the darkness of sin and death. Instead of progressing, we keep regressing, while the devil constantly tempts and sways us. As a result, we do not experience happiness but only face suffering clinging to our every step.

The transfiguration of Jesus requires us to awaken and nurture the divine nature that God has given us, so that our lives will become more peaceful and happy, and the joy of the Kingdom of Heaven will increasingly permeate our lives. The perfect brilliance of Jesus has been given to us and is also hidden within us. The problem is how not to let our dark, selfish humanity obscure and suffocate that precious, sublime divine nature. On the contrary, we need to let that divine nature influence and guide our lives and sanctify our humanity. If we do so, we will become more and more conformed to Christ.

Everyone desires the beauty of Princess Diana or the nobility of the couple Ivanka Trump and Jared Kushner. Even a disabled but extremely intelligent person like Stephen Hawking is admired by many people. But everyone knows that over time, beauty will fade, fame will die, and the mind will decline. What is attached to the body, to humanity, will return to dust together with the body. Meanwhile, the holiness of a Teresa of Calcutta, the nobility of the apostle to lepers, Damien, have not faded but have become more radiant with time. What belongs to the divine nature is eternal and boundless.

The event of the Transfiguration also teaches us the secret to awakening and enlivening the divine nature in man. The Gospel clearly says: “While Jesus was praying, the appearance of his face changed, and his clothes became dazzling white.” The divine nature of Jesus shone forth as he conversed with the Father. At the same time, “Peter and his companions were overcome with sleep; but when they awoke, they saw the glory of Jesus and the two men standing with him.” Only when Peter, John, and James were truly awake could they recognize the divine nature of the Master. Vigilance and prayer are the surest secret to discovering and nurturing the divine nature in us.

True prayer always transfigures human. The core of prayer is union with God. It can be through feelings, words, or actions. Prayer is not synonymous with reciting words, especially praying like a machine as the mind wanders somewhere else. On the contrary, just a sense of God’s presence beside us, a word of thanksgiving for what we have, a brief attention to God, a kind gesture done in God’s name, a longing for God wherever we are and whatever we are doing, are the starting points for prayer. Once we feel united with God, we are immersed in prayer and begin to be transformed. Then our divinity is strengthened and made to grow by God.

Before Jesus was baptized, he prayed by the Jordan River and the heavens opened. Before Jesus entered Jerusalem, he prayed on the mountain and his face was radiant. Before Jesus was arrested, he prayed in the Garden of Gethsemane, and angels came to comfort him. Whoever cherishes his divinity must also be vigilant in prayer. When beauty fades, fame dies, and the mind darkens, then peace, trust, and hope will be the angelic wings that lead us to heaven. We will receive eternal treasures in heaven and leave our descendants on earth a legacy that will never fade.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Biến cố hiển dung trong bài Phúc Âm hôm nay xảy ra ngay trước khi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem, nơi Người sẽ chịu thương khó và chết. Vì thế, để củng cố các tông đồ trong hành trình khổ nạn, Chúa Giêsu đã tỏ lộ vinh quang chói lòa tiềm ẩn trong căn tính Cứu Thế của mình. Các tông đồ và nhất là từng người chúng ta không bao giờ được phép quên rằng Chúa Giêsu vừa là con người vừa là Thiên Chúa.

Thiên tính và nhân tính lúc nào cũng hiện hữu và tác động trong cuộc sống dương thế của Chúa Giêsu. Khi chúng ta quên đi một trong hai bản tính đó của Người, chúng ta sẽ có cái nhìn thiển cận hay phán đoán sai lầm về một sự cố hay hành động của Chúa Giêsu. Nhân tính của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng không có cảm nghiệm hay khổ đau nào của chúng ta mà Chúa Giêsu không hiểu thấu và cảm thông. Thiên tính của Người mời gọi chúng ta tín thác rằng dù hoàn cảnh khó khăn phức tạp đến đâu, Thiên Chúa vẫn chủ động tiến hành kế hoạch cứu độ của Người. Có những dấu lạ hay biến cố vượt trên khả năng và sự hiểu biết của con người, nhưng vẫn hoàn toàn nằm trong bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, và chúng ta phải tin tưởng và cộng tác.

Bên cạnh đó, khi Kinh Thánh mặc khải rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa thì Kinh Thánh cũng khẳng định rằng: mỗi người chúng ta ngoài bản tính nhân loại cũng được chia sẻ một phần thiên tính của Thiên Chúa. Chiều kích thiên tính nơi chúng ta vừa là những gì tinh hoa tuyệt vời nhất của mình vừa là điều chúng ta hay quên nhất. Không ý thức về thiên tính của mình, chúng ta cứ để mặc cho nhân tính lèo lái mọi ý nghĩ, lời nói, và hành động. Và thay vì trở nên tốt lành thánh thiện hơn, chúng ta lại chìm dần vào bóng tối tội lỗi và sự chết. Thay vì thăng tiến, chúng ta cứ ngày càng thụt lùi, trong khi ma quỷ thì không ngừng cám dỗ lung lạc chúng ta. Kết quả là hạnh phúc đâu chẳng thấy mà chỉ thấy khổ đau chập chùng cuốn chặt mỗi bước đi.

Biến cố hiển dung của Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải đánh thức và dưỡng nuôi phần thiên tính mà Thiên Chúa đã ban cho mình, để cuộc sống ngày càng an bình hạnh phúc, và niềm vui Nước Trời ngày càng thẩm thấu đời mình. Sự sáng láng tuyệt hảo nơi Chúa Giêsu đã được ban phát cho chúng ta và cũng tiềm ẩn trong chúng ta. Vấn đề là làm sao đừng để cho cái nhân tính ích kỷ tối tăm của mình che khuất bóp nghẹt cái thiên tính cao vời trân quý ấy. Mà ngược lại, để thiên tính ấy tác động và hướng dẫn cuộc sống mình, thánh hóa nhân tính mình. Được như thế thì chúng ta ngày càng đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.

Ai cũng ao ước nét đẹp của công nương Diana hay vẻ quý phái của cặp vợ chồng Ivanka Trump và Jared Kushner. Ngay cả một người tàn tật nhưng thông minh tuyệt đỉnh như Stephen Hawking cũng là niềm ngưỡng mộ của bao người. Nhưng ai cũng biết, theo năm tháng, dung nhan sẽ tàn úa, danh vọng sẽ tiêu tan, trí óc sẽ lu mờ. Những gì gắn liền với xác thân, với nhân tính, sẻ trở về với cát bụi theo thân xác. Trong khi đó, sự thánh thiện của một Têrêsa Can-quýt-ta, vẻ cao thượng của một tông đồ người cùi Damien đã không phai mờ mà còn rực rỡ hơn theo thời gian. Những gì thuộc về thiên tính thì trường cửu vô biên.

Biến cố hiển dung cũng dạy cho chúng ta cái bí quyết để khơi dậy và làm sống động thiên tính nơi con người. Tin Mừng nói rõ: “Đang lúc Chúa Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa.” Thiên tính của Chúa Giêsu bừng lên tỏa sáng khi Người đàm đạo với Chúa Cha. Cùng một lúc, “Ông Phêrô và đồng bạn ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người.” Chỉ khi nào Phêrô, Gioan và Giacôbê thực sự tỉnh táo các ông mới có thể nhận ra thiên tính của Thầy. Tỉnh thức và cầu nguyện là bí quyết chắc chắn nhất để khám phá và dưỡng nuôi thiên tính nơi chúng ta.

Sự cầu nguyện chân thực luôn luôn làm hiển dung con người. Cốt lõi của sự cầu nguyện là sự kết hợp với Thiên Chúa. Có thể qua tâm tình, lời nói, hoặc hành động. Cầu nguyện không đồng nghĩa với đọc kinh, nhất là đọc kinh như cái máy mà đầu óc bay bổng nơi nào. Trái lại, chỉ một ý thức về sự hiện diện của Chúa bên cạnh, một lời tạ ơn Chúa cho những gì mình có, một chút hướng lòng lên cùng Chúa, một cử chỉ tử tế làm vì danh Chúa, một tâm tình khao khát Chúa ở bất cứ nơi nào và bất kể đang làm gì, đều là khởi điểm cho sự cầu nguyện. Một khi ta cảm nhận sự kết hiệp với Chúa là lúc mình chìm đắm trong cầu nguyện và bắt đầu được biến đổi. Khi ấy, thiên tính nơi mình được Chúa củng cố và làm tăng trưởng.

Trước khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Người cầu nguyện bên dòng sông Giođan và tầng trời mở ra. Trước khi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem, Chúa cầu nguyện trên núi và dung mạo Người sáng láng. Trước khi Chúa Giêsu bị bắt, Người cầu nguyện trong vườn Giệtsimani, và các thiên sứ đến hầu cận ủi an. Ai trân quý thiên tính của mình thì cũng phải tỉnh thức cầu nguyện. Để rồi khi nhan sắc tàn phai, danh vọng mịt mờ, đầu óc trì trệ, thì sự an bình, niềm tín thác, và lòng hy vọng sẽ là những đôi cánh thiên thần dẫn đưa về thiên quốc. Vừa đón nhận kho tàng vĩnh cửu trên trời, vừa để lại cho con cháu dưới thế một gia sản không bao giờ tàn phai.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Mar. 9, 2025

Dear Parishioners,

The three temptations that Satan dangled in front of Jesus in the desert represent the three most successful tactics in seducing people. The first bait is material abundance, particularly pleasure and money; the second is fame and honor; and the third is power and pride. All regimes and tyrants in human history have used these tactics, from the conquest of the Roman empires to the current Russian ambition, from communism to capitalism. Given enough pleasure, fame, and power, the crowds will be easily manipulated. No wonder even some religions use material things to attract followers.

For Jesus, the three temptations became extremely dangerous. First, there is nothing more attractive than a hot loaf of bread when the stomach rumbles. Secondly, everything Satan lured Jesus to do was within His power, as easy as the flick of a finger. During his public life, Jesus multiplied loaves and fish and cured many diseases, so much so that people wanted to make him king. The easier and more attractive the trap, the more sinister it is.

Not only did Satan use these tactics against Jesus, but he continues to use them to seduce, mislead, and manipulate each of us. The more knowledge, authority, or responsibility one possesses, the more sophisticated and cunning the temptations. Indeed, all those who direct their lives to money, pleasure, power, and worldly glory are just nameless minions of the devil. What are your concrete temptations?

Lent is an opportunity for us to stay awake, to realize where we are going, and especially where we want to reach. Jesus himself had to spend 40 days in the desert to prepare for his mission. Thus, we have no choice but to prepare ourselves for our own wilderness, if we want to conquer temptations and find purpose, meaning, and freedom for our life.

The important lesson today is: How did Jesus break free from the stranglehold of these temptations? To counter the three powerful tactics of the devil, Jesus recalled three truths from the book of Deuteronomy: first, the fullness of life comes from the Word of God rather than bread; second, only the authority of God is the ultimate and rightful authority; third, the highest honor comes from God and not from the world. The three tactics of the demon are neutralized by the wisdom and power that come from the Word of God, the word of life, the word of truth, the word of deliverance.

Everyone must face wilderness in life. So, I suggest that when the wilderness is surrounding us, recall the words of Jesus, “Nothing is impossible with God.” And then say to God, “Lord, I don’t understand why You’ve brought me here. But I’m placing all my trust in You. Please teach me what You want me to learn here. Please make me into the person You want me to be.”

Also, remember that pleasure, fame, and power are nothing but the blackholes of human experience. The more you have them, the more you thirst for them. Just look at what is going on now with Vladimir Putin of Russia and Xi Jinping of China. These two tyrants will never stop grabbing for more wealth, fame, and power until they collapse.

Like Jesus, the transforming solace in the wilderness of life for us is the Word of God. The Word is still the most effective means for those who seek truth, goodness, and beauty, for the souls that long for freedom and peace, for the revolutionaries of the heart. Both heaven and earth will pass away, together with our wilderness and pain. But the Word of God will last forever.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Ba cám dỗ mà Satan giăng trước mặt Chúa Giêsu trong sa mạc tượng trưng cho ba chiến thuật thành công nhất trong việc quyến rũ con người. Mồi nhử đầu tiên là sự sung túc về vật chất, đặc biệt là lạc thú và tiền bạc; thứ hai là danh tiếng và danh dự; và thứ ba là quyền lực và lòng kiêu hãnh. Tất cả các chế độ và bạo chúa trong lịch sử loài người đều sử dụng những chiến thuật này, từ cuộc chinh phục của các đế chế La Mã đến tham vọng hiện tại của Nga, từ chủ nghĩa cộng sản đến chủ nghĩa tư bản. Khi có đủ lạc thú, danh tiếng và quyền lực, đám đông sẽ dễ dàng bị thao túng. Không có gì ngạc nhiên khi ngay cả một số tôn giáo cũng sử dụng những thứ vật chất để thu hút tín đồ.

Đối với Chúa Giêsu, ba cám dỗ trở nên cực kỳ nguy hiểm. Thứ nhất, không có gì hấp dẫn hơn một ổ bánh mì nóng hổi khi bụng đói cồn cào. ​​Thứ hai, mọi thứ Satan dụ dỗ Chúa Giêsu làm đều nằm trong khả năng của Ngài, dễ dàng như một cái búng tay. Trong suốt cuộc đời công khai của mình, Chúa Giêsu đã nhân bánh mì và cá lên và chữa lành nhiều bệnh tật, đến nỗi mọi người muốn tôn Ngài lên làm vua. Cái bẫy càng dễ dàng và hấp dẫn thì càng nham hiểm.

Satan không chỉ sử dụng những chiến thuật này chống lại Chúa Giêsu mà còn tiếp tục sử dụng chúng để quyến rũ, lừa dối và thao túng mỗi người chúng ta. Càng có nhiều kiến ​​thức, quyền hạn hoặc trách nhiệm, thì những cám dỗ càng tinh vi và xảo quyệt. Thật vậy, tất cả những ai hướng cuộc sống của họ đến tiền bạc, thú vui, quyền lực và vinh quang thế gian chỉ là những tay sai vô danh của ma quỷ. Những cám dỗ của bạn là gì?

Mùa Chay là cơ hội để chúng ta tỉnh thức, nhận ra mình đang đi đâu và đặc biệt là nơi chúng ta muốn đến. Chính Chúa Giêsu đã phải dành 40 ngày trong sa mạc để chuẩn bị cho sứ mệnh của mình. Vì vậy, chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chuẩn bị cho sa mạc của riêng mình, nếu chúng ta muốn chiến thắng những cám dỗ và tìm thấy mục đích, ý nghĩa và sự tự do cho cuộc sống của mình.

Bài học quan trọng hôm nay là: Chúa Giêsu đã thoát khỏi sự kìm kẹp của những cám dỗ này như thế nào? Để chống lại ba chiến thuật mạnh mẽ của ma quỷ, Chúa Giêsu đã nhắc lại ba sự thật từ sách Đệ Nhị Luật: thứ nhất, sự sống viên mãn đến từ Lời Chúa chứ không phải từ bánh mì; thứ hai, chỉ có thẩm quyền của Chúa mới là thẩm quyền tối cao và hợp pháp; thứ ba, vinh dự cao nhất đến từ Chúa chứ không phải từ thế gian. Ba chiến thuật của ma quỷ bị vô hiệu hóa bởi sự khôn ngoan và quyền năng đến từ Lời Chúa, lời sự sống, lời lẽ chân lý, lời giải cứu.

Mọi người đều phải đối mặt với sự hoang vu trong cuộc sống. Vì vậy, tôi đề nghị rằng khi sự hoang vu bao quanh chúng ta, hãy nhớ lại lời của Chúa Giêsu, “Không có gì là không thể với Chúa.” Và sau đó nói với Chúa, “Lạy Chúa, con không hiểu tại sao Chúa lại đưa con đến đây. Nhưng con đặt trọn niềm tin vào Chúa. Xin hãy dạy con những gì Chúa muốn con học ở đây. Xin hãy biến con thành con người mà Chúa muốn con trở thành.”

Ngoài ra, hãy nhớ rằng khoái lạc, danh vọng và quyền lực chẳng qua chỉ là những hố đen của trải nghiệm con người. Bạn càng có chúng, bạn càng khao khát chúng. Hãy nhìn vào những gì đang diễn ra hiện nay với Vladimir Putin của Nga và Tập Cận Bình của Trung Quốc. Hai bạo chúa này sẽ không bao giờ ngừng giành giật thêm của cải, danh vọng và quyền lực cho đến khi chúng sụp đổ.

Giống như Chúa Giêsu, niềm an ủi biến đổi trong sự hoang vu của cuộc sống đối với chúng ta chính là Lời Chúa. Lời Chúa vẫn là phương tiện hữu hiệu nhất cho những ai tìm kiếm chân lý, lòng tốt và vẻ đẹp, cho những tâm hồn khao khát tự do và hòa bình, cho những người cách mạng của trái tim. Cả trời và đất sẽ qua đi, cùng với sự hoang vu và đau khổ của chúng ta. Nhưng Lời Chúa sẽ tồn tại mãi mãi.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Mar. 2, 2025

March 2, 2025

Dear Parishioners,

There are simple habits that we only realize their importance when we forget to do them. Waking up in the morning, cleaning up, eating a piece of cake or drinking a glass of milk, then rushing to get in the car to go to work, forgetting to look in the mirror. Sometimes peanut butter is stuck on your face, the rim of a glass of milk or orange juice stained your lips, but you still go to meet a client or customer, who wouldn’t blush when you realize it? Worse still, forgetting to zip up your zipper or leaving toilet paper hanging down your back while still being cheerful in public is truly shameful. Looking in the mirror is a very simple but very important thing. Forgetting to do it can lead to losing your job or at least losing customers.

We want to show the world that we are neat and polite people, so we have to look in the mirror not just once but many times a day. And we all know that neatness and politeness on the outside is not as important as maturity and prudence on the inside. But have we ever asked ourselves: what is the human mirror that helps us recognize what is sloppy and ugly inside?

Let me say right away that no one does not have a human mirror that helps them recognize their own shortcomings and bad habits. Each person has not just one but many such human mirrors. They are the people who live closest to them. The human mirror of the wife is the husband, and vice versa. Then the siblings and parents, relatives and colleagues also constantly show us what in us is an eyesore, a deviation, and not good in their eyes.

When we look in the mirror and recognize a blemish on our face, a mistake in our clothing, we are secretly happy because we have corrected it in time. But when a human mirror only shows a bad trait or weakness, we naturally object. Why? Is it because we only want to correct our external appearance, while disregarding our inner maturity?

Definitely not. There are many reasons why we silently thank the glass mirror but are annoyed with human mirrors. Jesus in today’s Gospel shows us a basic reason, “Why do you see the speck in your brother’s eye, but do not notice the log in your own eye?” We are annoyed with human mirrors because each of us is a mirror. We also see in the person who just pointed out to us some bad habits and many other imperfections. In our mind we say to ourselves, “You are not any better than me, why are you showing off?”

It is always easier to see the shortcomings of others than to recognize our own. Just observe the conflicts between couples and we will see. The wife always has a long list of her husband’s bad habits. Conversely, the husband also lists many ways his wife has hurt or embarrassed him. When you consider carefully, it is not certain whose list is longer.

However, the way the husband and wife handle their lists is often very different. The wife will communicate her list to an intermediary – a priest, nun or family counselor – in detail, and most importantly, will tell them her husband’s sins, not just once but repeatedly. The husband, on the other hand, will rarely dare to express all his grievances to his wife, but will only share them with someone he trusts – sometimes a priest, sometimes a mediator.

When couples come to me to express their family problems, I want an office that is like a police station when they investigate. One person stands outside behind a one-way glass wall, seeing and hearing the two people inside, but the person being investigated cannot see the person standing outside. I want the husband to hear the wife’s discontent, and the wife to hear the husband’s sadness. Listening to each other completely and thoroughly is always an important first step to reconciliation. This is the most difficult step.

Another sad reality is: everyone thinks that the other person must change for things to be better, without thinking about changing themselves. Everyone wants to change others, but they refuse to change themselves. As such, things will not improve but will get worse. The reason is simple: no one can change others, only themselves. Without accepting this truth, it is impossible to improve yourself and your family.

Ancient cultures and masters through the ages have sounded the same message, in many different forms. Know Yourself – To know others is good knowledge, to know oneself is wisdom – Cultivate yourself, regulate your family, govern your country, and bring peace to the world – Knowing yourself and others, and you will win every battle. Jesus said bluntly, “You hypocrite! First take the log out of your own eye, and then you will see clearly to take the speck out of your brother’s eye!”

Standing in front of a mirror, no one is crazy enough to object to the stains or wrinkled clothes that appear before them. Each of us needs to learn to humbly listen to human mirrors tell us about our shortcomings and weaknesses. Do not argue or object. But take the time to examine ourselves. When others point out our shortcomings, they are our teachers. If those weaknesses are true, thank that person, and ask God to give you patience and wisdom to correct them. If you find some untrue points, silently ignore them, without making excuses or explanations. If that human mirror is your husband or wife, ask them how they can best help you correct them.

What must never be forgotten is: a useful mirror not only shows the ugly and dirty things but also reveals the beauty and nobility of the person looking in the mirror. Human mirrors should show each other the good qualities, sacrifices, and nobility of the people they live with. A human mirror that only shows the bad and the ugly is just a useless mirror, no one wants to live near it. But a mirror that brightens the beauty of the person looking in the mirror is a divine mirror.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Có những thói quen đơn giản mà chúng ta chỉ ý thức được tầm quan trọng của chúng khi mình quên làm. Sáng dậy, làm vệ sinh, ăn miếng bánh hay uống ly sữa, rồi vội vã lên xe đi làm, quên soi gương. Có khi peanut butter dính trên mặt, vết miệng ly sữa hay ly nước cam dính trên mép, mà cứ hiên ngang đi gặp thân chủ hoặc khách hàng thì khi nhận ra ai mà không đỏ mặt? Tệ hơn nữa là quên kéo zipper lên hay để toillet paper dính lòng thòng sau lưng mà cứ hớn hở giữa công chúng thì quả là đáng hổ thẹn. Soi gương là việc hết sức đơn giản nhưng cũng rất quan trọng. Quên làm có thể dẫn đến mất việc hay ít nhất mất khách.

Chúng ta muốn chứng tỏ cho thiên hạ biết mình là con người gọn gàng lịch sự nên chúng ta phải soi gương không chỉ một lần mà nhiều lần trong ngày. Và chúng ta ai cũng biết là vẻ gọn gàng lịch sự bên ngoài chưa quan trọng bằng sự chín chắn trưởng thành bên trong. Nhưng có bao giờ chúng ta tự hỏi: đâu là tấm gương nhân bản giúp cho mình nhận ra những gì là lôi thôi lếch thếch và xấu xa bên trong?

Xin thưa ngay rằng không ai là không có tấm gương nhân bản giúp mình nhận ra những khuyết điểm tật xấu của mình. Mỗi người có không chỉ một mà nhiều tấm gương nhân bản ấy. Đó là những người sống gần gũi nhất với mình. Tấm gương nhân bản của vợ là chồng, của chồng là vợ. Rồi cả anh chị em và cha mẹ, họ hàng và đồng nghiệp cũng không ngừng chỉ cho chúng ta thấy những gì nơi chúng ta là chướng mắt, là lệch lạc, là không tốt trong đôi mắt họ.

Khi chúng ta soi gương và nhận ra một vết nhơ trên mặt, một sơ xuất trong trang phục, thì chúng ta mừng thầm vì kịp thời chỉnh sửa. Còn khi một tấm gương nhân bản chỉ cho thấy một tính xấu hay nhược điểm thì chúng ta tự nhiên phản đối. Tại sao? Có phải là chúng ta chỉ muốn chỉnh sửa dung mạo bên ngoài, mà coi thường sự chín chắn trưởng thành bên trong không?

Chắn chắn là không. Có nhiều lý do cho việc chúng ta thầm cám ơn cái gương bằng kiếng nhưng lại khó chịu với những chiếc gương con người. Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay chỉ cho chúng ta một lý do căn bản, “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” Chúng ta khó chịu với các tấm gương nhân bản là vì mỗi bản thân chúng ta cũng là một chiếc gương. Chúng ta cũng thấy nơi kẻ vừa chỉ cho mình một số tật xấu không ít những khiếm khuyết bất toàn khác. Trong đầu chúng ta tự nhủ, “Ngươi đâu có hay ho gì hơn ta mà bày đặt?”

Thấy khuyết điểm của kẻ khác bao giờ cũng dễ gấp bội việc nhận ra khuyết điểm của mình. Cứ quan sát sự lủng củng giữa các cặp vợ chồng sẽ thấy. Người vợ thì lúc nào cũng có sẵn một danh sách tràng giang đại hải những thói hư tật xấu của chồng. Ngược lại, ông chồng thì cũng liệt kê không ít những gì vợ làm mình tổn thương hay mất mặt. Xét cho kỹ thì chưa chắc danh sách của ai dài hơn ai.

Tuy nhiên, việc sử lý danh sách của hai vợ chồng thường rất khác nhau. Người vợ thì phổ biến danh sách của mình cho một người trung gian – cha, sơ hay cố vấn gia đình – một cách rành mạch chi tiết, và nhất là kể tội chồng mình cho chính ông ta biết, không chỉ một lần mà lập đi lập lại nhiều lần. Còn người chồng thì ít khi dám bày tỏ mọi sự bất bình của mình với vợ, mà chỉ chia sẻ được với ai mình thật tin tưởng – có khi là một tu sĩ, có khi là người trung gian.

Khi có những cặp vợ chồng đến bày tỏ với tôi về những rạn nứt trong gia đình của họ, tôi muốn có một văn phòng giống như sở cảnh sát khi họ điều tra. Một người đứng ở ngoài sau bức tường kiếng một chiều, nhìn và nghe được hai người bên trong, nhưng người bị điều tra không thấy được người đứng bên ngoài. Tôi muốn người chồng nghe được tâm trạng bất bình của vợ, và người vợ nghe được tâm sự u uẩn của chồng. Lắng nghe lẫn nhau một cách trọn vẹn và thấu đáo bao giờ cũng là một bước khởi đầu quan trọng cho việc giải hòa. Đây là bước khó nhất.

Một thực tế đáng buồn nữa là: ai cũng cho rằng người kia phải thay đổi thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn, mà không hề nghĩ đến việc thay đổi chính mình. Ai cũng muốn sửa đổi người khác, còn mình thì không chịu sửa đổi. Cứ thế, mọi chuyện sẽ không cải tiến mà càng ngày càng tệ hại hơn. Lý do đơn giản là: không ai có thể thay đổi được người khác, mà chỉ có thể thay đổi chính mình. Không chấp nhận chân lý ấy thì không thể cải tiến chính mình cũng như gia đình mình được.

Các nền văn hóa cổ kính, các bậc tôn sư qua bao thế hệ, đều nhắc nhở cùng một thông điệp, dưới nhiều dạng khác nhau. Hãy biết chính mình Know Yourself – Tri nhân giả trí, tự tri giả minh – Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ – Biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng. Chúa Giêsu thì nói thẳng, “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em!”

Đứng trước tấm gương bằng kiếng, không ai điên khùng phản đối những vết nhơ hay bộ quần áo nhăn nhúm hiện ra trước mặt. Mỗi người chúng ta cần học được tâm tình khiêm nhường lắng nghe những tấm gương nhân bản kể ra những bất toàn yếu đuối của mình. Không biện bác hay phản đối. Nhưng dành ra thời giờ để kiểm điểm chính mình. Khi ai chỉ ra cái dở của ta thì là thầy ta. Nếu những bất toàn yếu đuối đó là sự thật, cám ơn người ấy, và xin Chúa cho mình sự kiên nhẫn và khôn ngoan để sửa đổi. Nếu tìm ra một vài điểm không thật thì âm thầm bỏ qua, không bào chữa giải thích. Nếu tấm gương nhân bản ấy là chồng hay vợ mình, hãy hỏi họ có thể giúp mình sửa đổi cách nào tốt nhất.

Điều không bao giờ được quên là: một chiếc gương hữu dụng không chỉ cho thấy những gì lem nhem xấu xí, mà còn làm lộ ra nét đẹp, sự thanh cao của kẻ soi gương. Những tấm gương nhân bản càng nên tỏ cho nhau thấy những tính tốt, sự hy sinh, và vẻ cao quý của những người đang chung sống với mình. Một tấm gương nhân bản chỉ trưng bày cái xấu thì chỉ là tấm gương vô dụng, không ai muốn sống gần. Còn tấm gương làm sáng lên vẻ đẹp của kẻ soi gương là một tấm gương thần.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Feb. 23, 2025

Feb. 23, 2025

Dear Parishioners,

The theme of today’s Word of God encapsulates a principle of life that is both general and specific. That principle is summarized in Jesus’ words: “Give, and it will be given to you. Good measure, pressed down, shaken together, running over, will be put into your lap.” The Jews had a lap that was like the hem of their robes, and when they fastened the lapels to their belts, they had a large bag that could hold a lot. Jesus made it clear that whoever gives a little will receive a lot in return. I call this practice the principle of divine grace.

In Buddhism, there is the law of cause and effect: what you sow, so shall you reap. The law of cause and effect emphasizes human justice: those who do good will reap good fruit; those who do evil will receive bad consequences. Everyone knows about the law of cause and effect, but we are still indignant when we see the deceitful and dishonest people everywhere, especially the Communist leaders who suck the blood of the poor and oppress religions while collecting millions for their families to live lavishly. But please rest assured. As ordinary people, we still know what is fair and just, so God, who is absolutely just and upright, will certainly carry out His justice. On the one hand, we still do our best to fight for justice. On the other hand, we should not be upset because we have not seen the immediate results. God knows what He does, and He invites us to trust in His providence.

The principle of divine grace in the Gospel places less emphasis on the consequences of evil, but on the fruits of goodness. Whoever does one good deed will receive thirty, sixty, or even a hundred folds, as we heard in the parable of the sower. The reason for this generosity is that the one who responds is not a mortal but God himself.

A beautiful young woman, dressed elegantly and nobly, entered the office of a psychologist. As soon as she sat down, she quickly said to the secretary, “I apologize for not having an appointment. I went shopping nearby and saw a psychological counseling office so I wanted to go in. I wonder if the doctor has time for me.” The secretary replied, “The doctor is talking to a client. Someone has already made an appointment in the next two hours. You can continue shopping, then come back in about three hours, the doctor will have time for you.”

She looked around, disappointed, “I can’t wait that long. Actually, I don’t have anything big to do. My life is very full. My husband loves me very much. Our children study hard, there is nothing to worry about. But why do I feel so empty and bored? I keep thinking about it but I don’t know why. My husband believes I’m just thinking too much.”

The secretary replied calmly, “I’m not as lucky as you. Five years ago, my mother was bedridden and I was the only child. I wasn’t married at the time. As you know, the salary for a secretary’s job is low and the work is monotonous, every day is the same.”

The customer asked, “Maybe I’m luckier than you in some ways. But I see your face is full of peace; you must have many secret joys?”

The secretary replied, “When my mother first fell ill, there were times when I felt so tired that I wanted to give up. Many times I couldn’t bear it anymore, and I thought about putting her in a nursing home, and then taking medicine to commit suicide. Then one afternoon, when I came home, I saw a small cat standing trembling by the door. It had an injured leg. Without thinking, I carried it inside, fed it, and bandaged its leg. It rubbed its head against my leg as if to thank me. I made for it a place in the corner of the room.

“From then on, every day I knew that the cat was always waiting for me to come home to take care of it and play with it. Suddenly the burden on my shoulders became lighter. I eagerly walked home, taking care of both my mother and the cat. It clung to me while I was taking care of my mother. And when I was taking care of it, I had a clear feeling that it cherished and loved my every gesture. Sometimes its eyes turned to my mother, meowing as if to tell me something. “I kept wondering about the cat’s eyes. Until one day, I suddenly discovered the meaning of those eyes. If the cat knew how to appreciate my love and care, then my mother must have appreciated my love and care even more, even though she could not express it. From then on, I no longer felt that taking care of my mother was a burden. The cat taught me that lesson. Now my mother is gone, and I have a family, but I still spend some time caring for someone.”

The stranger was silent, her face bowed for a long time. When she looked up, her eyes were slightly red. She dabbed her eyes with a handkerchief, thanking the secretary, “You are the one I really need to see, not the doctor. Now I understand the reason for the emptiness of my soul. I have so much but have not given anything away except for my responsibility to my husband and children, who have also received so much. I do not know how to give love, so I lack love and my heart is empty. I sincerely thank you, your mother, and the cat.”

A desperate person, thinking that she no longer has the strength to bear the burden of life, in a moment of compassion, she loved and cared for an animal, and from then on everything changed completely. It is when you give that you receive, and you are repaid many times over.

The best way to cope with boredom, to ease depression, to fill the void in the soul, to make the heart happy again, to make life meaningful, is to give love, care, and affection to someone who is in need, lonely, or disappointed. That little bit of time, money, or care will blossom into fruits of peace, joy, and love of life. “Give, and it will be given to you. A good measure, pressed down, shaken together, running over, will be poured into your lap.” Those who practice this principle of divine grace will not only be filled with peace in their lives, but they will also gradually feel the face of God always near them. Then, even those who come close to them will feel the joy of the Kingdom of Heaven.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Chủ đề của Lời Chúa hôm nay gói ghém một nguyên tắc sống vừa bao quát vừa cụ thể. Nguyên tắc đó được tóm gọn trong câu nói của Chúa Giêsu: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em.” Người Do-thái có cái vạt áo giống như tà áo dài của mình, và khi họ cài vạt áo đó vào đai thắt lưng, họ sẽ có một cái túi lớn đựng được rất nhiều. Chúa Giêsu nói rõ rằng ai cho đi một, thì sẽ nhận lại gấp bội. Tôi gọi nguyên tắc này là nguyên lý thiên ân.

Bên Phật giáo có luật nhân quả: gieo giống nào thì gặt quả nấy. Luật nhân quả nhấn mạnh vào sự công bằng nhân bản: ai làm tốt sẽ thu hoa trái tốt; ai làm xấu sẽ lãnh nhận hậu quả tai hại. Ai cũng biết về luật nhân quả, nhưng chúng ta vẫn bức xức khi thấy kẻ gian gối lừa lọc cứ phây phây ra đó, nhất là đám lãnh đạo Cộng Sản hút máu mủ dân nghèo và đàn áp các tôn giáo thì thu góp bạc triệu cho gia đình chúng ăn chơi phè phỡn. Quý ông bà anh chị em cứ yên tâm. Chúng ta là người bình thường mà còn biết đâu là công bằng chính nghĩa, thì Thiên Chúa công minh chính trực tuyệt đối chắc chắn sẽ thực thi công lý của Người. Một mặt, chúng ta vẫn hết sức đấu tranh cho công lý. Mặt khác, chúng ta không nên bực mình vì chưa thấy kết quả nhãn tiền. Chúa biết việc Chúa làm, và Chúa mời gọi chúng ta tín thác vào sự quan phòng của Người.

Nguyên lý thiên ân của Phúc Âm ít nhấn mạnh vào hậu quả của sự xấu, mà tập trung vào hoa trái của sự thiện hảo. Ai làm điều tốt một, sẽ nhận lại hoa trái ba mươi, sáu mươi, có khi một trăm, như chúng ta nghe trong dụ ngôn người gieo giống. Lý do của sự bội hậu này là vì người đáp trả không phải là phàm nhân mà là chính Thiên Chúa.

Có một phụ nữ trẻ đẹp, ăn mặc rất trang nhã quý phái, bước vào văn phòng của một chuyên gia tâm lý. Vừa ngồi xuống ghế bà đã mau mắn nói với cô thư ký, “Tôi xin lỗi đã không hẹn trước. Tôi đi mua sắm gần đây, thấy có văn phòng cố vấn tâm lý nên muốn vào. Không biết bác sĩ có giờ cho tôi không.” Cô thư ký trả lời, “Bác sĩ đang nói chuyện với một thân chủ. Hai giờ kế tiếp cũng đã có người xin hẹn. Bà có thể đi mua sắm tiếp, rồi khoảng ba tiếng nữa trở lại, bác sĩ sẽ có giờ cho bà.”

Bà ta nhìn quanh có vẻ thất vọng, “Tôi không chờ lâu được như vậy. Thực ra tôi cũng chẳng có chuyện gì to tát. Cuộc sống của tôi thật đầy đủ. Chồng tôi thương tôi thật nhiều. Con cái chúng tôi cũng học hành chăm chỉ, chẳng có gì đáng ngại. Nhưng sao tôi thấy tâm hồn mình thật trống rỗng, nhàm chán. Suy nghĩ hoài mà cũng chẳng biết tại sao. Chồng tôi thì cứ cho rằng tôi suy nghĩ vẩn vơ đấy thôi.”

Cô thư ký ôn tồn trả lời, “Tôi thì không được may mắn như bà. Cách đây năm năm, mẹ tôi nằm liệt giường mà tôi là đứa con duy nhất. Lúc đó tôi chưa lập gia đình. Công việc thư ký thì bà biết đó, lương chẳng bao nhiêu mà việc thì đơn điệu, ngày nào cũng như ngày ấy.”

Bà khách hỏi tới, “Có lẽ tôi may mắn hơn cô một số điều. Nhưng tôi thấy mặt cô đầy an bình; hẳn cô có nhiều niềm vui kín đáo lắm?”

Cô thư ký đáp, “Thời gian đầu khi mẹ tôi ngã bệnh, có lúc tôi cảm thấy quá mệt mỏi muốn bỏ cuộc. Nhiều khi chịu không nổi, tôi đã nghĩ đến việc bỏ mẹ vào nursing home, rồi uống thuốc tự vẫn. Rồi một buổi chiều kia, về đến nhà, tôi thấy có một con mèo nhỏ đứng run rẩy bên cạnh cửa ra vào. Nó bị thương một chân. Tôi chẳng suy nghĩ gì cả, bế nó vào trong nhà, cho nó ăn, và băng bó cái chân nó. Nó rụi đầu vào chân tôi như cám ơn. Tôi làm cho nó một chỗ nằm ở góc phòng.

“Từ đó trở đi, mỗi ngày tôi biết con mèo lúc nào cũng mong chờ tôi về nhà để săn sóc và chơi với nó. Tự nhiên gánh nặng trên vai tôi nhẹ hẳn. Tôi hăng hái bước về nhà, vừa chăm sóc cho mẹ vừa lo cho chú mèo. Nó cứ quấn lấy tôi trong lúc tôi săn sóc mẹ. Rồi lúc tôi lo cho nó, tôi có cảm tưởng rõ ràng rằng nó nâng niu quý mến từng cử chỉ của tôi. Có lúc mắt nó hướng về mẹ tôi, kêu “meo meo” như nhắn nhủ điều gì.

“Tôi cứ thắc mắc mãi về ánh mắt của chú mèo. Cho tới ngày kia, tôi chợt khám phá ra ý nghĩa của ánh mắt ấy. Nếu chú mèo biết trân quý sự yêu thương chăm sóc của tôi, thì mẹ tôi hẳn còn trân quý gấp bội sự yêu thương săn sóc của tôi, dù mẹ không diễn tả được. Từ đó trở đi, tôi không còn cảm thấy việc lo cho mẹ là gánh nặng nữa. Chú mèo đã dạy cho tôi bài học ấy. Bây giờ mẹ tôi không còn, và tôi đã lập gia đình, nhưng tôi vẫn dành ra một số thời giờ để quan tâm đến một ai đó.”

Bà khách lạ lặng yên không nói, mặt bà cúi xuống khá lâu. Lúc ngẩng lên, đôi mắt bà hơi đỏ. Bà lấy khăn chấm mắt, cám ơn cô thư ký, “Cô mới thực sự là người tôi cần gặp chứ không phải ông bác sĩ. Bây giờ thì tôi hiểu lý do của sự trống rỗng của tâm hồn. Tôi có quá nhiều mà chẳng cho đi chút nào ngoài trách nhiệm đối với chồng con, những người cũng đã được nhận rất nhiều. Tôi không biết cho đi tình yêu nên tôi thiếu thốn tình yêu và tim tôi trống vắng. Tôi chân thành cám ơn cô, mẹ cô, và cả chú mèo nữa.”

Một người tuyệt vọng, tưởng rằng không còn đủ sức vác gánh nặng cuộc sống. Thế rồi trong một phút từ tâm đã yêu thương săn sóc một con vật, và từ đó mọi chuyện thay đổi hẳn. Chính khi cho đi là khi được nhận lãnh, đáp đền gấp bội.

Cách tốt nhất để đương đầu với nhàm chán, để xoa dịu đi cơn trầm cảm, để lấp đầy trống vắng trong hồn, để con tim sẽ vui trở lại, để cuộc sống đong đầy ý nghĩa, là cho đi tình thương, sự quan tâm, lòng ưu ái cho một ai đó đang thiếu thốn, đang cô đơn, đang thất vọng. Chút thời gian, tiền bạc, hay lòng quan tâm ấy sẽ nổ rợ hoa trái của bình an, niềm vui, và lòng yêu đời.

“Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo cho anh em.” Ai thực thi nguyên lý thiên ân ấy, thì cuộc sống họ không chỉ tràn ngập an bình, mà họ còn từ từ cảm nhận khuôn mặt của Thiên Chúa luôn luôn cận kề bên cạnh. Khi ấy, cả những ai đến gần họ cũng cảm nhận niềm vui Nước Trời.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Feb. 16, 2025

Feb. 16, 2025

Dear Parishioners,

When the gospel talks about visible world, it also speaks about spiritual world. Jesus heals a lot of sicknesses, but the real healing he wants for us is the healing in our spirit, our soul. So, in the gospel today we hear about Jesus curing a leper, we, of course, rejoice with him and for him. But we must ask ourselves, “What spiritual illness of mine needs the healing touch of Jesus?”

Once upon a time, there was a holy man with a magic mirror. Whoever sincere and honest can come standing before the mirror, and it will show the real wellbeing of that person. But only the sage and that person can see what shows in the mirror, and no one else does. Though curious, many folks are scared by the idea of seeing their true inner form. Yet many did come and stood before the magic mirror.

A soldier, who had lost an arm and a leg in battle, saw a perfect body in the mirror. He asked the holy man, “Why?” The sage said, “Because you continue to work and serve as well as any able person.”

An elderly woman in a wheelchair saw a robust person preaching to a crowd inspiring awe from them. She shook her head in disbelief, “What is going on?” The sage smiled, “Your long suffering and earnest prayers from the wheelchair speak as eloquently and powerfully as the best preachers.”

A businessman came and couldn’t believe his eyes. He saw no human shape but many arms flailing about like tentacles. The sage said, “You grab and grope everywhere for profit and gain.”

A doctor came and saw her body full of sores and pus and blotches. She ran away without talking to the sage. She knew she had been more concerned about increasing her bank accounts than about treating patients.

A young man came, and the mirror showed his brain and his stomach burning in terrible fires. He dropped his head; though his wife and children hadn’t known, drugs and alcohol were ravaging his body.

A woman came and saw fire oozing from her mouth like lava coming from the mouth of a volcano, her tongue long and black like a serpent’s. She knew she had been gossiping badly about many people.

A priest came and saw only the back of his body and without any leg. He asked the holy man, “Why?” The sage looked sad, “You only follow your own pursuit, ignoring what Jesus teaches and the Church informs. You have no standing before God.”

A scientist came and saw a brilliant light shining from his head but a black hole at his heart. The sage explained, “That is because you worship science without a conscience. You use science to deny God. But you will fail.” …

Now, it is your turn, and mine, to stand still before the magic mirror.

What do you see? What do you want to do about what you see?

In 1981 Peter Cropper, the British violinist, was invited to Finland to play a special concert. As a personal favor to Peter, the Royal Academy of Music lent him their priceless 285-year-old Stradivarius for use in the concert.

This rare instrument takes its name from the Italian violin maker, Antonio Stradivari. It was made of 80 pieces of special wood and covered with 30 coats of special varnish. Its beautiful sound has never been duplicated.

When Cropper got to Finland, an incredible nightmare took place. Going on stage, he tripped and fell. The violin broke into several pieces. He flew back to London, totally shocked. A master craftsman named Charles Beare agreed to try to repair the violin. He worked endless hours on it.

Finally, he got it back together again. Then came the dreaded moment of truth. What would the violin sound like? Beare handed the violin to Cropper. His heart was pounding inside, as he picked up the bow and began to play. Those present could hardly believe their ears. Not only was the violin’s sound excellent, but it seemed better than before. In the months ahead, Cropper took the violin on a worldwide tour. Night after night, the violin everyone thought was ruined forever drew standing ovations from concert audiences.

Whatever you see in the magic mirror – a leper, a broken violin, or anything else –  Jesus’s healing touch is waiting for you and me. The same touch that created us in the first place will restore in us the image and likeness of God.

Jesus is waiting.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Khi Phúc Âm nói về thế giới hữu hình, nó cũng đề cập đến thế giới tâm linh. Chúa Giêsu chữa lành rất nhiều bệnh tật, nhưng sự chữa lành thực sự mà Người muốn làm cho chúng ta là sự chữa lành tâm linh. Vì vậy, trong Phúc Âm hôm nay, chúng ta nghe về việc Chúa Giêsu chữa lành một người phong cùi, tất nhiên chúng ta vui mừng với và cho anh ta. Nhưng chúng ta phải tự hỏi, “Căn bệnh tâm linh nào của tôi cần sự chữa lành từ Chúa Giêsu?”

Ngày xửa ngày xưa, có một người hiền triết thánh nhân có một chiếc gương huyền bí. Bất kỳ ai chân thành và tin tưởng đều có thể đến đứng trước tấm gương, và nó sẽ trình bày cho thấy con người trung thực của họ. Nhưng chỉ có nhà hiền triết và người đó mới có thể nhìn thấy những gì hiển thị trong gương, và không ai khác có thể. Mặc dù tò mò, nhiều người lo sợ hiện tượng nhìn thấy hình dạng bên trong thực sự của họ. Tuy nhiên, cũng có nhiều người đã đến và đứng trước chiếc gương kỳ diệu.

Một người lính, đã cụt một cánh tay và một chân trong trận chiến, lại nhìn thấy một cơ thể hoàn hảo trong gương. Anh ta hỏi vị thánh nhân, “Tại sao lại như vậy?” Nhà hiền triết nói, “Bởi vì anh vẫn tiếp tục làm việc và phục vụ tốt như bất kỳ người có đầy đủ năng lực.”

Một bà lão ngồi xe lăn nhìn thấy một người khỏe mạnh đang thuyết giảng trước đám đông khiến họ vô cùng kính sợ. Bà lắc đầu không tin, “Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Nhà hiền triết mỉm cười, “Những lời cầu nguyện tha thiết và đau khổ của bà từ chiếc xe lăn có sức thuyết phục và hùng hồn như những nhà thuyết giáo giỏi nhất.”

Một doanh nhân đến và không tin vào mắt mình. Ông không thấy hình người nào mà chỉ thấy nhiều cánh tay quơ quài như những cái vòi bạch tuộc. Nhà hiền triết nói, “Ông chộp giật và lục lọi khắp nơi để kiếm lợi.”

Một bác sĩ đến và nhìn thấy cơ thể bà đầy vết loét, mủ và vết thâm. Bà bỏ chạy mà không nói chuyện với nhà hiền triết. Bà biết mình đã lo lắng nhiều về việc tăng tài khoản ngân hàng của mình hơn là điều trị cho bệnh nhân.

Một thanh niên đến, và tấm gương cho thấy não và dạ dày của anh ta đang cháy trong ngọn lửa khủng khiếp. Anh ta cúi đầu; mặc dù vợ và các con anh ta không biết, nhưng ma túy và rượu nồng đang tàn phá cơ thể anh ta.

Một người phụ nữ đến và nhìn thấy lửa trào ra từ miệng bà như dung nham phun ra từ miệng núi lửa, lưỡi bà dài và đen như lưỡi rắn. Cô biết mình đã nói xấu nhiều người.

Một vị linh mục đến và chỉ thấy phần lưng của ông và không có chân. Ông hỏi vị thánh hiền, “Tại sao?” Nhà hiền triết trông buồn bã, “Ông chỉ theo đuổi mục đích của riêng mình, bỏ qua những gì Chúa Giêsu dạy và Giáo Hội hướng dẫn. Ông không có chỗ đứng trước mặt Thiên Chúa.”

Một nhà khoa học đến và thấy một luồng sáng rực rỡ chiếu từ đầu ông nhưng lại có một lỗ đen ở tim. Nhà hiền triết giải thích, “Đó là vì ông tôn thờ khoa học mà không có lương tâm. Ông dùng khoa học để phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng ông sẽ thất bại.” …

Bây giờ, đến lượt bạn, và tôi, đứng yên trước tấm gương huyền bí.

Bạn nhìn thấy gì? Bạn muốn làm gì với những gì bạn nhìn thấy?

Năm 1981, Peter Cropper, nghệ sĩ vĩ cầm người Anh, được mời đến Phần Lan để chơi một buổi hòa nhạc đặc biệt. Để tỏ lòng biết ơn cá nhân với Peter, Học viện Âm nhạc Hoàng gia đã cho ông mượn cây đàn Stradivarius vô giá 285 năm tuổi của họ để sử dụng trong buổi hòa nhạc.

Nhạc cụ quý hiếm này lấy tên từ nghệ nhân làm đàn vĩ cầm người Ý, Antonio Stradivari. Nó được làm từ 80 miếng gỗ độc đáo và phủ 30 lớp véc ni đặc biệt. Âm thanh tuyệt vời của nó chưa bao giờ được sao chép.

Khi Cropper đến Phần Lan, một cơn ác mộng đáng kinh ngạc đã xảy ra. Khi lên sân khấu, ông ta vấp ngã. Cây vĩ cầm vỡ ra nhiều mảnh. Ông vội bay trở lại London, hoàn toàn bị sốc. Một nghệ nhân bậc thầy tên là Charles Beare đã đồng ý cố gắng sửa chữa cây vĩ cầm. Ông đã làm việc không ngừng nghỉ trong một thời gian dài.

Cuối cùng, ông đã lắp ráp lại được nó. Rồi đến khoảnh khắc sự thật đáng sợ. Cây vĩ cầm sẽ rung lên âm thanh nào? Beare đưa cây vĩ cầm cho Cropper. Tim ông ta đập thình khi cầm cây vĩ lên và bắt đầu chơi. Những người có mặt ở đó khó có thể tin vào tai mình. Không chỉ âm thanh của cây vĩ cầm tuyệt vời, mà nó còn có vẻ hay hơn trước. Trong những tháng tiếp theo, Cropper đã mang cây vĩ cầm đi lưu diễn khắp thế giới. Đêm này qua đêm khác, cây vĩ cầm mà mọi người nghĩ rằng đã hư hỏng mãi mãi đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ khán giả của các buổi hòa nhạc.

Bất kể bạn nhìn thấy gì trong tấm gương kỳ diệu – một người phong hủi, một cây vĩ cầm bị hỏng, hay bất kỳ thứ gì khác – thì sự chạm tới chữa lành của Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn và tôi. Chính ngón tay đã tạo ra chúng ta ngay từ đầu sẽ tái tạo chúng ta trở lại hình ảnh giống như Chúa.

Chúa Giêsu đang chờ đợi.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Message of the Week Feb. 9, 2025

February 9, 2025

Dear Parishioners,


Dorothy Mefford bought a potted gardenia and put it in her living room. She fertilized it and watered it faithfully. The leaves turned a rich green and the plant began to bud. But for some reason the buds died one after the other.

For six weeks, Dorothy tended the plant, hoping that at least one bud would make it and burst into bloom. But none did. Discouraged, she put the gardenia outside.

As she did, she regretted wasting so much time and money on it. Then, she ran into a series of problems: a serious illness in the family, a financial problem, and a misunderstanding with a friend. The more she struggled with these problems, the worse they got. Nothing seemed to go right for her anymore. She began to indulge in self-pity.

Then one day, when her depression hit an all-time low, she got together a basket of dirty clothes and decided to go to the laundry. At least she could wash clothes. As she shut the door and descended the steps, she noticed a lovely fragrance filling the air.

It was so lovely that she looked around to see where it was coming from. What she saw amazed her. The gardenia that she had given up on and had put outside had just produced a magnificent white flower. It was as large as it was fragrant.

All the fertilizing, watering, and care that she had given the plant in the house was not
enough to make it bloom. What it needed was to be exposed to the fullness of the sun.

She stopped and thought for a minute. Then it hit her. What was true of her gardenia was also true of her life. All her efforts to deal with her problems had not produced a solution. Those efforts on her part had been necessary, but they were not enough. Like the gardenia, something was missing. Something more was needed. She needed God, just as the gardenia needed the sun.

Dorothy Mefford’s story of her gardenia and herself bears a striking resemblance to the story of Peter in today’s gospel. Peter and his companions had labored all night and had caught nothing. All their work had been useless. They had done everything they could, but it was not enough. Something was missing.

Then Jesus entered the picture, and everything changed. Like the gardenia discovering the sun, and like Dorothy discovering God, Peter and his companions discovered the answer to their problems. They had been missing the most important ingredient of all. They had been missing the help and the power of God. They had been missing the help and the power of Jesus.

Let me be a little bit philosophical here. For something to happen, there are necessary conditions and sufficient conditions. For example, the passing of a bill by Congress is the necessary condition for the bill to be a law, and the signature of the President is the sufficient condition for that law.

For most problems, we do our best to deal with them. But no matter how hard we have tried, how much money we have spent, and how long we have waited, the problems persist. Efforts, money, and time are necessary conditions to handle the problems. But they are not enough. We must find sufficient conditions for the solutions to those problems.

There was a man whose wife had died suddenly and tragically. He nearly went out of his mind with grief and anguish. Instead of time healing the wound, time only made it worse. Finally, the doctors suggested that the man take a trip abroad.

But travel was not the answer. One day, while in Italy, he climbed up a cliff with one thing on his mind: suicide. As he stood on the edge of the cliff, ready to leap to his death, he suddenly heard music. It was so pure that it startled him. He looked around to see where it was coming from. What he saw amazed him.

There at the entrance to a cave appeared a barefoot boy playing a harmonica. The sound
of the harmonica and the sight of the boy penetrated the depths of his grieving heart. Suddenly he realized how much loveliness and beauty were still left in the world. He realized how selfish and self-pitying he had been.

He said later that the barefoot boy playing the harmonica was a gift from God. It was much more. It was the very presence and power of God entering his life to help him, at a time when he could no longer help himself.

When Jesus said, “Nothing is impossible with God,” I believe he meant that with God we will discover the sufficient conditions for the healing, freedom, recovery, hope, or perseverance to our illness, imprisonment, addiction, despair, or chronic pain. God might or might not make the problem disappear, but God will lead us through and show us a new horizon. And we will feel alive and joyful again.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,


Dorothy Mefford đã mua một chậu hoa dành dành và đặt nó trong phòng khách của mình. Cô bón phân và tưới nước đều đặn. Lá cây chuyển sang màu xanh tươi và cây bắt đầu nảy chồi. Nhưng không hiểu sao các nụ hoa cứ lần lượt chết.

Trong sáu tuần, Dorothy chăm sóc cây, hy vọng rằng ít nhất một nụ sẽ nở hoa. Nhưng không có nụ nào nở. Nản lòng, cô đặt cây dành dành ra ngoài hiên.

Khi làm vậy, cô hối hận vì đã lãng phí quá nhiều thời gian và tiền bạc vào việc này. Sau đó, cô gặp phải một loạt vấn đề: một căn bệnh nghiêm trọng của người thân, một khó khăn tài chính, và sự hiểu lầm với một người bạn. Cô càng vật lộn với những vấn đề này, chúng càng trở nên tồi tệ hơn. Không có gì có vẻ ổn với cô nữa. Cô bắt đầu đắm chìm trong sự tủi thân.

Rồi một ngày nọ, khi chứng trầm cảm của cô xuống mức thấp nhất, cô gom một giỏ quần áo bẩn và quyết định đi giặt. Ít nhất thì cô cũng có thể giặt quần áo. Khi cô đóng cửa và bước xuống cầu thang, cô nhận thấy một mùi hương dễ chịu lan tỏa trong không khí. Thật tuyệt vời khi cô nhìn quanh để xem nó đến từ đâu. Những gì cô nhìn thấy khiến cô kinh ngạc. Cây dành dành mà cô đã từ bỏ và để bên ngoài hiên vừa mới nở một bông hoa trắng tuyệt đẹp. Nó to và thơm ngát.

Mọi công sức bón phân, tưới nước và chăm sóc mà cô đã dành cho cây trong nhà đều không đủ để khiến nó nở hoa. Điều nó cần là được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.

Cô dừng lại và suy nghĩ một phút. Rồi cô nhận ra. Điều đúng với cây dành dành của cô cũng đúng với cuộc sống của cô. Mọi nỗ lực của cô để giải quyết các vấn đề của mình đều không mang lại giải pháp. Những nỗ lực đó là cần thiết, nhưng vẫn chưa đủ. Giống như cây dành dành, cô đang thiếu một thứ gì đó. Cô cần một thứ gì đó hơn thế nữa. Cô cần Chúa, cũng như cây dành dành cần ánh nắng mặt trời.

Câu chuyện của Dorothy Mefford về cây dành dành và chính cô có nét tương đồng đáng kinh ngạc với câu chuyện về Phêrô trong Phúc Âm hôm nay. Phêrô và những người bạn đánh cá của ông đã làm việc suốt đêm mà không bắt được gì. Mọi công sức của họ đều vô ích. Họ đã làm mọi thứ có thể, nhưng vẫn chưa đủ. Có điều gì đó còn thiếu.

Sau đó, Chúa Giêsu xuất hiện và mọi thứ đã thay đổi. Giống như hoa dành dành khám phá ra mặt trời và giống như Dorothy khám phá ra Chúa, Phêrô và những người bạn đồng hành của ông đã khám phá ra câu trả lời cho các vấn đề của họ. Họ đã bỏ lỡ điều quan trọng nhất trong tất cả. Họ đã bỏ lỡ sự giúp đỡ và quyền năng của Chúa. Họ đã bỏ lỡ sự trợ giúp và quyền năng của Chúa Giêsu.

Tôi xin dùng một chút về triết lý ở đây. Để một điều gì đó xảy ra, cần có các điều kiện cần và đủ. Ví dụ, việc Quốc hội thông qua dự luật là điều kiện cần, và chữ ký của Tổng thống là điều kiện đủ để luật đó có hiệu lực.

Đối với hầu hết các vấn đề, chúng ta đều cố gắng hết sức để giải quyết chúng. Nhưng dù chúng ta có cố gắng đến đâu, đã chi bao nhiêu tiền, và đã chờ đợi bao lâu thì các vấn đề vẫn tồn tại. Nỗ lực, tiền bạc và thời gian là những điều kiện cần thiết để giải quyết các vấn đề. Nhưng chúng vẫn chưa đủ. Chúng ta phải tìm ra các điều kiện đủ để giải quyết các vấn đề đó. Có một người đàn ông có vợ đột ngột qua đời một cách bi thảm. Anh ta gần như phát điên vì đau buồn và mất mát. Thay vì thời gian chữa lành vết thương, thời gian chỉ khiến nó tệ hơn. Cuối cùng, các bác sĩ đề nghị người đàn ông này đi du lịch nước ngoài.

Nhưng du lịch không phải là câu trả lời. Một ngày nọ, khi đang ở Ý, anh ta trèo lên một vách đá với một điều trong đầu: tự tử. Khi anh ta đứng trên mép vách đá, sẵn sàng nhảy xuống tự tử, anh ta đột nhiên nghe thấy tiếng nhạc. Nó quá trong trẻo đến nỗi khiến anh ta giật mình. Anh ta nhìn xung quanh để xem nó phát ra từ đâu. Những gì anh ta nhìn thấy khiến anh ta kinh ngạc. Ở đó, tại lối vào một hang động xuất hiện một cậu bé chân không đang chơi kèn

harmonica. Âm thanh của kèn harmonica và hình ảnh cậu bé đã xuyên thấu vào tận đáy trái tim nhức nhối của anh ta. Đột nhiên, anh ta nhận ra rằng thế giới này vẫn còn bao nhiêu điều đáng yêu và tươi đẹp. Anh ta nhận ra mình đã ích kỷ và tự thương hại mình như thế nào.

Sau này, anh ta nói rằng cậu bé chân không đang chơi kèn harmonica là một món quà từ Thiên Chúa. Nó còn hơn thế nữa. Đó chính là sự hiện diện và sức mạnh của Chúa chạm đến cuộc đời anh để giúp anh, vào thời điểm anh ta không còn có thể tự giúp mình nữa.

Khi Chúa Giêsu nói, “Không có gì là không thể với Chúa,” tôi tin rằng Người muốn nói rằng với Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra những điều kiện cần và đủ để chữa lành, giải thoát, phục hồi, hy vọng, hoặc kiên trì đối với bệnh tật, sự giam hãm, nghiện ngập, tuyệt vọng, hoặc cái đau kinh niên của mình. Chúa có thể không khiến vấn đề biến mất, nhưng Chúa sẽ dẫn dắt chúng ta vượt qua và chỉ cho chúng ta một chân trời mới. Và con tim chúng ta sẽ sống động và vui tươi trở lại.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Fr. Duc’s Weekly Reflection – Feb. 2, 2025

February 2, 2025

Dear Parishioners,

How many of us experienced an infant baptism as a momentous event? How many believe that a wedding mass is a life-transforming occurrence? None of us does. We know that these two rituals are important events in the life of a Catholic, but they are rather mundane and forgettable. The parents having the child baptized often pay more attention to the party after the baptism. The couple spends most of their time, money, and effort on the wedding reception, not the wedding mass. For most of us, children baptism and wedding mass are parts and parcels of Catholic life, but they leave no excitement and lasting impact.

Similarly, the three rites that the Gospel narrates today – the circumcision, the presentation of the firstborn, and the purification of a mother after birth – were all mundane rituals for the Jews of Jesus’ time. The Jewish circumcision and firstborn presentation are equivalent to the Catholic baptism. The purification of a mother after birth was far less significant than the wedding mass of today. Thus, these rites were familiar and perfunctory, just as infant baptism and wedding mass are for us.

Together with these humdrum rituals were two elderly persons – Simeon and Anna. What is exciting about getting old? Nothing, but ache and pain, fatigue and loneliness. And what were they doing in the temple? Praying quietly and waiting patiently. Nothing interesting and inspiring!

So, on the surface, the happenings in the Gospel reading are unexciting, ritualistic, boring, and even tiring. But for those who have eyes to see, ears to hear, and especially heart to comprehend what is going on is both life-changing and world-altering.

First, these rituals initiate a life-transforming encounter for Simeon and Anna. These two elderly folks are no boring, pessimistic, over-the-hill octogenarians. They are tough, determined, and unyielding people with perfect patience and absolute trust in God.

Let me ask you this: do you know what is most important, most valuable for your life. Something that makes you so happy and fulfilled that you desire nothing else and fear nothing, even death itself? Alas, I wish there were a handfuls of such people on earth. Most of us have no clue what is so important, valuable, and fulfilling for ourselves that achieving it makes us long for nothing else.

This ultimate goal, we and our contemporary have no clue, but Anna and Simeon knew exactly what theirs was: an encounter with the Messiah, the Savior of the world. Once this goal was achieved, they were ready to die in peace and happiness.

Secondly, not only Anna and Simeon knew the final goal of their existence, but also, they didn’t mind how long it took to achieve that goal. They had been waiting all their life for that encounter with Jesus, even as an infant. They were tireless travelers on their way to their ultimate destination, never waiver nor despair.

Lastly, the encounter between Simeon and Anna and the Messiah was realized in the very mundane, seemingly boring, quickly passing rituals of the day. Here lies an invaluable lesson: God always accomplishes his plan of salvation, his project of transformation in a quiet but steady manner. In this way, on the surface, nothing exciting occurs, but in fact lives are transformed and salvation comes to fruition.

Do you know the ultimate goal of your life? Are you aware of your deepest longing the achievement of which leaves no other desire in your heart? And once you come to be aware of that goal, how would you pursue it and for how long?

In the meantime, God alone knows the deepest longing of everyone’s heart and he never stops working for the fulfillment of the longing, most of the time through quiet, invisible, mundane events and things. Only those who have strong heart to long, clear eyes to see, and attentive ears to hear, will see the hands of God working in their lives bringing fulfillment to their profoundest desires. They patiently and faithfully cooperate with God until the end.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,


Có bao nhiêu người trong chúng ta đã cảm nghiệm lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh như một sự
kiện trọng đại? Có bao nhiêu người tin rằng lễ hôn phối là một sự kiện thay đổi cuộc đời? Không ai trong chúng ta tin như vậy. Chúng ta biết rằng hai nghi lễ này là những sự kiện quan trọng trong cuộc sống của một người Công giáo, nhưng chúng quá quen thuộc và dễ quên. Những bậc cha mẹ làm lễ rửa tội cho con thường chú ý nhiều hơn đến bữa tiệc sau lễ rửa tội. Đôi tân hôn dành phần lớn thời gian, tiền bạc và công sức cho bữa tiệc cưới, chứ không phải lễ hôn phối. Đối với hầu hết chúng ta, lễ rửa tội cho trẻ em và lễ cưới là những phần không thể thiếu trong cuộc sống Công giáo, nhưng chúng không để lại sự phấn khích và tác động lâu dài.

Tương tự như vậy, ba nghi lễ mà Phúc Âm thuật lại ngày nay – lễ cắt bì, lễ dâng con đầu
lòng và lễ thanh tẩy cho người mẹ sau khi sinh – đều là những nghi lễ quen thuộc đối với người Do Thái vào thời Chúa Giêsu. Lễ cắt bì và lễ dâng con đầu lòng của người Do Thái tương đương với lễ rửa tội của người Công Giáo. Lễ thanh tẩy cho người mẹ sau khi sinh ít quan trọng hơn nhiều so với lễ cưới ngày nay. Do đó, những nghi lễ này rất quen thuộc và hời hợt, giống như lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh và lễ cưới đối với chúng ta.

Cùng với những nghi lễ tẻ nhạt này là hai ông bà cụ – Simêon và Anna. Còn có gì thú vị trong tuổi già? Không có gì, ngoài đau đớn và mệt mỏi, rã rời và cô đơn. Và họ đã làm gì trong đền thờ? Cầu nguyện thầm lặng và kiên nhẫn chờ đợi. Không có gì thú vị và hứng thú!

Vì vậy, bề ngoài, những sự kiện trong bài Phúc Âm không thú vị, mang tính nghi lễ, nhàm chán và thậm chí mệt mỏi. Nhưng đối với những người có mắt để nhìn, tai để nghe và đặc biệt là trái tim để hiểu những gì đang diễn ra thì vừa thay đổi cuộc sống vừa thay đổi thế giới.

Đầu tiên, những nghi lễ này khởi đầu cho một cuộc gặp gỡ biến đổi cuộc sống đối với Simêon và Anna. Hai cụ già này không phải là những người tám mươi tuổi buồn tẻ, bi quan, già nua. Họ là những người cứng rắn, cương quyết, và không chịu khuất phục bằng sự kiên nhẫn hoàn hảo và niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa.

Cho tôi hỏi câu này: bạn có biết điều gì quan trọng nhất, có giá trị nhất đối với cuộc sống của bạn không? Một điều gì đó khiến bạn hạnh phúc và viên mãn đến mức bạn không mong muốn điều gì khác và không sợ bất cứ điều gì, ngay cả cái chết? Than ôi, tôi ước gì có được chỉ vài người như vậy trên trái đất. Hầu hết chúng ta không hề biết điều gì quan trọng, có giá trị và đong đầy cho mình đến độ nếu đạt được điều đó chúng ta không còn mong muốn gì khác.

Mục tiêu tối hậu này, chúng ta và những người đương thời của chúng ta không biết, nhưng Anna và Simêon biết rõ mục tiêu của họ là gì: được gặp gỡ với Đấng Mêsia, Đấng Cứu Độ thế giới. Một khi mục tiêu này đạt được, họ đã sẵn sàng chết trong an bình và hạnh phúc.

Thứ hai, Anna và Simêon không chỉ biết mục tiêu tối hậu cho sự hiện hữu của họ, mà họ còn không hề bận tâm đến việc phải mất bao lâu để đạt được mục tiêu đó. Họ đã chờ đợi cả cuộc đời mình để được gặp Chúa Giêsu, dù lúc đó chỉ là một đứa trẻ sơ sinh. Họ là những lữ khách không biết mệt mỏi trên con đường đến đích điểm cuối cùng của đời mình, không bao giờ nao núng hay tuyệt vọng.

Cuối cùng, cuộc gặp gỡ giữa Simêon và Anna với Đấng Mêsia đã được thực hiện qua những nghi lễ rất tầm thường, có vẻ nhàm chán và trôi qua nhanh chóng của ngày. Đây chính là một bài học vô giá: Thiên Chúa hằng hoàn thành kế hoạch cứu rỗi của mình, dự án biến đổi của mình một cách lặng lẽ êm đềm. Theo cách này, nhìn bên ngoài, không có gì thú vị xảy ra, nhưng trên thực tế, cuộc sống được biến đổi và ơn cứu rỗi đã đơm hoa kết trái.


Bạn có biết mục tiêu tối hậu của cuộc đời mình không? Bạn có nhận thức được khát khao sâu thẳm nhất của mình, khát khao mà khi đạt được nó, bạn không còn mong muốn nào khác trong tim mình không? Và một khi bạn nhận thức được mục tiêu đó, bạn sẽ theo đuổi nó như thế nào và trong bao lâu?

Trong khi đó, chỉ có Thiên Chúa mới thấu rõ khát khao sâu thẳm nhất trong trái tim mỗi người, và Người không bao giờ ngừng làm việc để thỏa mãn khát khao đó, phần lớn thời gian thông qua những sự kiện và sự vật thầm lặng, vô hình, và trần tục. Chỉ những ai có trái tim mạnh mẽ, đôi mắt trong sáng để nhìn, và đôi tai chăm chú lắng nghe mới thấy được bàn tay quan phòng của Thiên Chúa liên lỉ làm việc trong cuộc sống của họ, cho tới lúc đáp đền trọn vẹn những khát khao sâu thẳm nhất của họ. Họ kiên nhẫn và trung thành hợp tác với Chúa cho đến cùng.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ

Father Duc’s Weekly Reflection- Jan. 26, 2025

Jan. 26, 2025

Dear Parishioners,

Liz had been married to Ted for seven years. They had two beautiful children. But Liz’s mother began to sense that her daughter was starting to go through a hard time in her marriage.

One day she called Liz and said, “If I pay for a baby-sitter, will you go shopping with me tomorrow?’’ Liz jumped at the invitation. While eating lunch together the next day, after shopping, Liz’s mother leaned over and said to her: “I had a reason for asking you out today. I have something important to tell you. It’s something my mother told me and asked me to tell my daughter when the right time came.

My mother called it: ‘Three guidelines to a happy marriage.’ “The first guideline is this: Never keep score in marriage. Don’t ever say to your spouse, ‘I’ve been doing more than my share. It’s not fair.’ The day you begin to keep score is the day your marriage begins to die.

“The second guideline is this: Never be too busy for your children. Don’t ever say to them, ‘Can’t you see I’m busy? Come back later.’ The day you become too busy for your children is the day your communication with them begins to die.

“The third guideline is this: Never miss a day praying for your family. Don’t ever let 24 hours go by without talking to God about your family. The day you stop conversing with Godabout your family is the day you deprive them of the greatest gift a mother can give.’’

As her mother finished, Liz took her mother’s hand. Her eyes filled up with tears as she said: “Mom, that’s the most beautiful advice you could give me. But why did you wait seven years to tell me? Why didn’t you tell me the day Ted and I got married? It would have helped me so much— so very much!’’

Liz’s mother said: “Honey, I wanted to tell you the day that you and Ted got married. Oh, how I wanted to tell you! I wanted to tell you with all my heart. But I knew it wasn’t the right time. I knew you weren’t ready then. I had to wait for the right time—when you would understand what I was talking about.”

When someone is not ready to hear, it doesn’t matter how wise, good, or effective an advice is, it will have no impact on the listeners. We call that “timing is everything.”

“Timing” is also the answer to our familiar question, “Why did Jesus wait so long to
begin his preaching? Why didn’t he begin his preaching in his twenties, rather than thirties?”

Jesus had to wait for John the Baptist to call the people to repentance. John the Baptist
initiated something totally unique in the life of Israel. The Jews always considered themselves God’s chosen people. So, they could never need baptism of repentance. But proclaiming a baptism of repentance was the sole mission of John the Baptist, the most important way to prepare for the arrival of the Messiah.

Only when the Jews recognized their need for God would the proclaiming of God’s Kingdom by Jesus the Messiah find a hearing. Only once the Jews realized that not anyone else but they themselves were the poor, the captive, the blind, the oppressed, that the message of glad tidings, liberty, recovery, and liberation be possible for them.

And this brings us to the most important point of all: how all this applies to our own lives. Perhaps the most important application is this:

Jesus can’t begin to act in our lives and transform them until—like the people of Israel—we are ready to let him do it. Nor can Jesus do anything to make us ready. Only we can do that. And the way we make ourselves ready is the way Liz and Israel became ready. It is to recognize and to admit that we cannot go it alone in life. It is to recognize and to admit our need for Jesus Christ.

Only when we have reached this point can Jesus begin to act in our lives to transform us
into what God made us to be. And only when our lives are touched and transformed by Jesus can we experience the year of favor of grace.

When this personal readiness for God’s power to act in our lives is lacking, God must
wait. It is like having a cup under a faucet. You turn on the faucet and water flows. Now, if you turn the cup upside down, no matter how much water is flowing, the cup is always empty.

When our life is empty of God’s grace and power, it is not that God stops pouring his
grace and power, it is we who are not ready to receive them. We must acknowledge our needs for God’s mercy and open our hearts, minds, and souls to welcome it.

That is precisely why we always begin mass with the penitential rite. We acknowledge
our sinfulness and ask for God’s mercy. Yet if we only say it with our lips but our hearts are
somewhere else, we are not ready for transformation, for liberty, for recovery.

So, next time at mass, be a little more attentive, more conscious when we say the
penitential rite. Mean it with all your heart, mind, and soul. We pray that we may recognize and admit our need for Jesus. We pray that we may turn our lives over to him and let him transform us and bring us to a happiness that we never dreamed possible.

In the Most Holy Trinity and in solidarity with you all,

Fr. Duc

Ông Bà Anh Chị Em quý mến,

Liz đã kết hôn với Ted được bảy năm. Họ có hai đứa con xinh đẹp. Nhưng mẹ của Liz bắt đầu cảm thấy rằng con gái bà đang bắt đầu trải qua thời kỳ khó khăn trong hôn nhân.

Một ngày nọ, bà gọi cho Liz và nói, “Nếu mẹ trả tiền thuê người giữ trẻ, ngày mai con sẽ đi mua sắm với mẹ chứ?” Liz đã nhảy cẫng lên vì lời mời. Khi đang ăn trưa cùng nhau vào ngày hôm sau, mua sắm xong, mẹ của Liz nghiêng người về phía con và nói: “Mẹ có lý do để rủ con đi chơi hôm nay. Mẹ có điều quan trọng muốn nói với con. Đó là điều bà ngoại đã nói với mẹ và yêu cầu mẹ nói với con gái mình khi đến thời điểm thích hợp.

Bà ngoại gọi đó là: ‘Ba nguyên tắc cho một hôn nhân hạnh phúc.’ “Nguyên tắc đầu tiên là: Không bao giờ tính toán hơn thiệt trong hôn nhân. Đừng bao giờ nói với vợ/chồng của mình rằng, ‘Em đã làm nhiều hơn phần việc của mình. Điều đó không công bằng.’ Ngày bắt đầu tính toán hơn thiệt là ngày cuộc hôn nhân của bắt đầu hấp hối.

“Nguyên tắc thứ hai là: Không bao giờ quá bận rộn để không có giờ cho con cái. Đừng bao giờ nói với con rằng, ‘Mẹ không thấy con đang bận sao? Lát nữa nhé.’ Ngày mà mình trở nên quá bận rộn cho con cái chính là ngày mà sự nối kết với chúng bắt đầu dẫy chết.

“Nguyên tắc thứ ba là: Không bao giờ bỏ lỡ một ngày cầu nguyện cho gia đình. Đừng bao giờ để 24 giờ trôi qua mà không nói chuyện với Chúa về gia đình mình. Ngày mà bạn ngừng trò chuyện với Chúa về gia đình mình chính là ngày mà bạn tước đi món quà tuyệt vời nhất mà một người mẹ có thể trao tặng cho gia đình.”

Khi mẹ cô kết thúc, Liz nắm lấy tay mẹ. Đôi mắt rươm rướm nước mắt khi cô nói: “Mẹ ơi, đó là lời khuyên tuyệt vời nhất mà mẹ có thể dành cho con. Nhưng tại sao mẹ lại đợi bảy năm mới nói với con? Tại sao mẹ không nói với con ngày mà Ted và con vừa kết hôn? Điều đó sẽ giúp ích cho con rất nhiều – rất nhiều!”

Bà mẹ nói: “Con yêu, mẹ rất muốn kể cho con nghe ngày mà con và Ted kết hôn. Ôi, mẹ muốn kể cho con biết bao! Mẹ muốn kể cho con nghe bằng cả trái tim mình. Nhưng mẹ biết đó không phải là thời điểm thích hợp. Mẹ biết lúc đó con chưa sẵn sàng. Mẹ phải đợi đến thời điểm thích hợp—khi conn hiểu được những gì mẹ đang nói.”

Khi ai đó không sẵn sàng lắng nghe, thì lời khuyên dù khôn ngoan, tốt đẹp hay hiệu quả
đến đâu cũng không quan trọng, nó sẽ không có tác động gì đến người nghe. Chúng ta gọi đó là “thời điểm chín mùi”.

“Thời điểm” cũng là câu trả lời cho câu hỏi quen thuộc, “Tại sao Chúa Giêsu lại đợi lâu như vậy để bắt đầu rao giảng? Tại sao Ngài không bắt đầu rao giảng khi Ngài ở độ tuổi đôi mươi, thay vì đợi đến khi Ngài ba mươi tuổi?” Chúa Giêsu phải đợi cho đến khi Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người ăn năn. Gioan Tẩy Giả t đã khởi xướng một điều hoàn toàn độc đáo trong cuộc sống của Israel. Người Do Thái luôn coi mình là dân được Chúa chọn. Vì vậy, họ không bao giờ cần đến phép báp têm ăn năn. Nhưng việc công bố phép báp têm ăn năn là sứ mệnh duy nhất của Gioan Tẩy Giả, cách quan trọng nhất để chuẩn bị cho sự xuất hiện của Đấng Mêsia.

Chỉ khi người Do Thái nhận ra nhu cầu của họ đối với Chúa thì lời công bố về Nước Trời của Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế mới được lắng nghe. Chỉ khi người Do Thái nhận ra rằng chính họ là người nghèo, người bị giam cầm, người mù, người bị áp bức, thì thông điệp về tin mừng, tự do, phục hồi và giải thoát mới có thể đến với họ.

Và điều này đưa chúng ta đến điểm quan trọng nhất trong tất cả: Chúa Giêsu không thể bắt đầu hành động trong cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta cho đến khi—giống như dân Do Thái—chúng ta sẵn sàng để Người làm điều đó. Chúa Giêsu cũng không thể làm bất cứ điều gì để giúp chúng ta sẵn sàng. Chỉ chúng ta mới có thể làm điều đó. Và cách chúng ta sẵn sàng chính là cách Liz và Israel đã sẵn sàng. Đó là nhận thức và xác tín rằng chúng ta không thể tự mình sống một mình. Đó là nhận thức và xác tín rằng chúng ta cần Chúa Giêsu Kitô.

Chỉ khi chúng ta đạt đến điểm này, Chúa Giêsu mới có thể bắt đầu hành động trong cuộc sống của chúng ta để biến đổi chúng ta thành con người mà Chúa đã tạo ra chúng ta. Và chỉ khi cuộc sống của chúng ta được Chúa Giêsu chạm đến và biến đổi, chúng ta mới có thể trải nghiệm năm hồng ân.

Khi sự sẵn sàng để quyền năng của Chúa hành động trong cuộc sống mình còn quá mong manh, Chúa phải chờ đợi. Giống như có một cái ly dưới vòi nước. Bạn mở vòi nước và nước chảy. Bây giờ, nếu bạn lật ngược cái ly, bất kể nước chảy bao nhiêu, nó vẫn trống rỗng.

Khi cuộc sống của chúng ta thiếu ân sủng và quyền năng của Chúa, thì không phải là Chúa ngừng đổ ân sủng và quyền năng của Người, mà là chúng ta chưa sẵn sàng đón nhận chúng. Chúng ta phải thừa nhận nhu cầu của mình đối với lòng thương xót của Chúa và mở rộng trái tim, tâm trí và linh hồn để chào đón nó.

Đó chính xác là lý do tại sao chúng ta luôn bắt đầu thánh lễ bằng nghi thức sám hối. Chúng ta thừa nhận tội lỗi của mình và cầu xin lòng thương xót của Chúa. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ nói bằng môi nhưng trái tim chúng ta ở một nơi khác, thì chúng ta chưa sẵn sàng để biến đổi, để được tự do, để phục hồi.

Vì vậy, lần tới khi tham dự thánh lễ, hãy chú ý hơn một chút, có ý thức hơn khi chúng ta thực hiện nghi thức sám hối. Hãy thực hiện điều đó bằng cả trái tim, tâm trí và linh hồn mình. Chúng ta cầu nguyện để có thể nhận thức và xác tín nhu cầu của mình đối với Chúa Giêsu.

Chúng ta cầu nguyện để có thể trao cuộc sống của mình cho Người và để Người biến đổi chúng ta và mang đến cho chúng ta một hạnh phúc mà chúng ta chưa bao giờ mơ ước có thể có.

Hiệp thông trong Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất với ông bà anh chị em,

Lm Tôma Vũ Minh Đức, SJ